Có nhiều cách để nhân giống cây ăn quả, tùy theo loại cây mà chọn ra phương pháp thích hợp nhất để đảm bảo chất lượng cây giống
1- Phương pháp nhân giống hữu tính:
Phương pháp nhân giống hữu tính là phương pháp nhân giống bằng hạt.
* Những ưu điểm của phương pháp nhân giống bằng hạt.
- Kỹ thuật đơn giản, dễ làm.
- Chi phí lao động thấp, do đó giá thành cây con thấp.
- Hệ số nhân giống cao.
- Tuổi thọ của cây trồng bằng hạt thường cao.
- Cây trồng bằng hạt thường có khả năng thích ứng rộng với điều kiện ngoại cảnh.
* Những nhược điểm của phương pháp nhân giống bằng hạt
- Cây giống trồng từ hạt thường khó giữ được những đặc tính của cây mẹ.
- Cây giống trồng từ hạt thường ra hoa kết quả muộn.
- Cây giống trồng từ hạt thường có thân tán cao, gặp khó khăn trong việc chăm sóc cũng như thu hái sản phẩm.
Do những nhược điểm như vậy nên phương pháp nhân giống bằng hạt chỉ được sử dụng trong một số trường hợp:
- Gieo hạt lấy cây làm gốc ghép
- Sử dụng gieo hạt đối với những cây ăn quả chưa có phương pháp khác tốt hơn.
- Dùng trong công tác lai tạo chọn lọc giống.
* Nhữngđiểm chú ý khi nhân giống bằng hạt.
- Phải nắm được các đặc tính, sinh lý của hạt: một số hạt chín sinh lý
sớm, nảy mầm ngay trong hạt (hạt mít, hạt bưởi); một số hạt có vỏ cứng
cần xử lý hoá chất, bóc bỏ vỏ cứng trước khi gieo (hạt xoài, hạt mận) và
một số hạt khi để lâu sẽ mất sức nảy mầm (hạt nhãn, hạt vải).
- Phải đảm bảo các điều kiện ngoại cảnh cho hạt nảy mầm tốt: nhiệt độ,
không quá thấp hoặc quá cao, độ ẩm đất đảm bảo 70 - 80% độ ẩm bão hoà và
đất gieo hạt phải tơi xốp, thoáng khí.
- Phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước chọn lọc: chọn giống có khả năng
sinh trưởng khoẻ, năng suất cao và phẩm chất tốt; chọn những cây mang
đầy đủ các đặc điểm của giống muốn nhân; chọn những quả có hình dạng đặc
trưng của giống; chọn những hạt to, mẩy, cân đối và chọn cây con to,
khoẻ, sinh trưởng cân đối.
* Các phương pháp gieo hạt làm cây giống
- Gieo ươm hạt trên luống đất.
+ Đất gieo hạt phải được cày bừa kỹ, bón lót 50 - 70 kg phân chuồng hoai
mục + 0,5 - 0,7 kg supe lân/100m2 và lên thành các luống cao 10 - 15
cm, mặt luống rộng 0,8 - 1,0 m, khoảng cách giữa các luống 40 - 50 cm.
+ Hạt được gieo thành hàng hoặc theo hốc với các khoảng cách tuỳ thuộc
vào loại cây ăn quả, gieo ươm để lấy cây ra ngôi hoặc gieo trực tiếp lấy
cây giống. Độ sâu lấp hạt từ 1 - 3 cm tuỳ thuộc vào thời vụ gieo và
tuỳ thuộc vào hạt giống cây ăn quả đem gieo.
+ Các khâu chăm sóc phải được làm thường xuyên như: tưới nước giữ ẩm,
nhổ cỏ, xới xáo phá váng, bón phân đặc biệt là theo dõi, phát hiện và
phòng trừ bệnh kịp thời. Bón thúc bằng nước phân chuồng pha loãng 1/10 -
1/15 hoặc các loại phân vô cơ pha loãng 1%.
- Gieo ươm hạt trong bầu
Phương pháp gieo ươm hạt trong túi bầu được sử dụng cho cả phương pháp
nhân giống bằng hạt và gieo ươm cây gốc ghép cho nhân giống bằng phương
pháp ghép. Hạt giống được gieo trực tiếp vào túi bầu tiêu chuẩn hoặc
gieo vào túi bầu nhỏ rồi tiến hành ra ngôi sau. Hạt giống thường được xử
lý và ủ cho nứt nanh mới tiến hành gieo. Hỗn hợp bầu đang được sử dụng
là đất + phân chuồng hoai mục với tỷ lệ là 1 m3 đất mặt + 200 - 300 kg
phân chuồng hoai mục + 10 - 15 kg supe lân. Các khâu kỹ thuật chăm sóc
được tiến hành tương tự như phương pháp gieo ươm hạt trên luống đất.
2- Các phương pháp nhân giống vô tính cây ăn quả
Phương pháp nhân giống vô tính cây ăn quả là phương pháp mà thông qua
các cách làm khác nhau tạo ra những cây hoàn chỉnh từ những phần riêng
biệt ở cơ quan sinh dưỡng của cây mẹ.
2.1. Phương pháp chiết cành
Cơ
sở khoa học của phương pháp là sau khi ta tiến hành khoanh vỏ, dưới
ảnh hưởng của các chất nội sinh trong tế bào như auxin, cytokinin khi
gặp những điều kiện nhiệt độ, độ ẩm thích hợp thì dễ được hình thành và
chọc thủng biểu bì đâm ra ngoài.
* Những ưu điểm của phương pháp chiết cành
- Cây giống giữ nguyên được đặc tính di truyền của cây mẹ.
- Cây sớm ra hoa kết quả, rút ngắn được thời gian kiến thiết cơ bản.
- Thời gian nhân giống nhanh.
- Cây trồng bằng cành chiết thường thấp, phân cành cân đối, thuận lợi cho chăm sóc và thu hoạch.
* Những nhược điểm của phương pháp chiết cành
- Hệ số nhân giống không cao, chiết nhiều cành trên cây sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây mẹ.
- Đối với một số giống cây ăn quả, dùng phương pháp chiết cành cho tỷ lệ ra rễ thấp.
* Phương pháp tiến hành
- Cành chiết được lấy trên các cây giống đã được chọn lọc ở thời kỳ sinh
trưởng khoẻ, cây có năng suất cao, ổn định và không có sâu bệnh nguy
hiểm gây hại. Chọn những cành có đường kính từ 1 - 2 cm ở tầng tán giữa
và phơi ra ngoài ánh sáng, không chọn cành na, cành dưới tán và các
cành vượt.
- Dùng dao cắt khoanh vỏ với chiều dài khoanh vỏ bằng 1,5 - 2 lần đường
kính gốc cành. Sau khi bóc lớp vỏ ngoài, dùng dao cạo sạch phần tượng
tầng đến lớp gỗ.
Sau khi khoanh vỏ1 - 2 ngàythì tiến hành bó bầu. Đất bó bầu gồm 2/3 là
đất vườn hoặc đất bùn ao phơi khô, đập nhỏ + 1/3 là mùn cưa, rơm rác
mục, xơ dừa... tưới ẩm, bọc bầu bằng giấy potyêtylen và buộc kín hai đầu
bằng lạt mềm.
Sau 60 - 90 ngày, tuỳ thuộc vào thời vụ chiết, cành chiết rễ. Khi cành
chiết có rễ ngắn chuyển từ màu trắng sang màu vàng ngà là có thể cắt
cành chiết đưa vào vườn ươm.
Thời vụ chiết thích hợp cho đa số các chủng loại cây ăn quả là vụ xuân và vụ thu.
2.2. Phương pháp giâm cành.
Giâm cành là phương pháp nhân giống cây trồng bằng cơ quan sinh dưỡng.
Cơ sở khoa học của phương pháp tương tự như nhân giống bằng phương pháp
chiết cành.
* Những ưu điểm của phương pháp giâm cành.
- Giữ nguyên được đặc tính di truyền của cây mẹ.
- Tạo ra cây giống sau trồng sớm ra hoa kết quả.
- Thời gian nhân giống nhanh.
- Có thể nhân nhiều giống mới từ một nguồn vật liệu giới hạn ban đầu.
* Những nhược điểm.
Đối với những giống cây ăn quả, nhất là những giống kho ra rễ, sử dụng
phương pháp này đòi hỏi phải có những trang thiết bị cần thiết để có thể
khống chế được điều kiện nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng trong nhà giâm.
* Phương pháp tiến hành.
Đối với các cây ăn quả dạng gỗ cứng, có rụng lá mùa đông, thường lấy
cành giâm khi cây bước vào thời kỳ ngủ nghỉ. Đối với các cây ăn quả gỗ
mềm, không rụng lá thường lấy cành giâm vào mùa sinh trưởng.
Nền giâm được sử dụng là cát khô, than bùn, xơ dừa hoặc là nền đất tuỳ
thuộc vào điều kiện giâm cành, thời vụ giâm, chủng loại giống và loại
cành giâm khác nhau.
Cành giâm được chọn ở giữa tầng tán tương tự chọn cành chiết, chiều dài
hom giâm thích hợp từ 15 - 20 cm. Đối với những cành giâm lấy vào mùa
sinh trưởng nên để lại trên hom giâm từ 2 - 4 lá.
Để tăng khả năng ra rễ của cành giâm, có thể nhúng phần gốc hom giâm vào
dung dịch chất điều tiết sinh trưởng như: a NAA, IBA, IAA ở nồng độ
2000 - 4000 ppm trong vài giây hoặc ngâm phần gốc hom giâm vào các dung
dịch trên ở nồng độ 20 - 40 ppm trong thời gian 10 - 20 phút.
Sau khi giâm cần tưới ướt bề mặt lá thường xuyên ở dạng phun sương để
tránh thoát hơi nước gây rụng lá. Khi cành giâm có một đợt lộc mới ổn
định sinh trưởng và có đầy đủ rễ thì tiến hành ra ngôi và chăm sóc cây
cho đến khi đạt tiêu chuẩn xuất vườn.
Giai đoạn từ giâm cho tới khi có rễ và lộc mới ổn định cần được tiến
hành trong nhà giâm, khi ra ngôi cần chọn thời điểm có điều kiện thời
tiết thuận lợi hoặc ra ngôi trong điều kiện có mái che.
2.3. Nhân giống cây ăn quả bằng phương pháp ghép
Cơ sở khoa học của phương pháp là khi ghép, bằng những phương pháp nhất
định làm cho tượng tầng của gốc ghép và thân ghép tiếp xúc với nhau,
nhờ sự hoạt động và khả năng tái sinh của tượng tầng làm cho mắt ghép
và gốc ghép gắn liền với nhau.
* Những ưu điểm của phương pháp ghép
- Cây ghép sinh trưởng phát triển tốt nhờ sự phát triển, hoạt động tốt
của bộ rễ gốc ghép và khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, đất đai
của cây gốc ghép.
- Cây ghép giữ được các đặc tính của giống muốn nhân.
- Hệ số nhân giống cao, trong thời gian ngắn có thể sản xuất được nhiều cây giống đáp ứng yêu cầu của sản xuất.
- Giống làm gốc ghép sớm cho ra hoa kết quả vì mắt ghép chỉ tiếp tục giai đoạn phát dục của cây mẹ.
- Tăng cường khả năng chống chịu của cây với điều kiện bất thuận như: chịu hạn, chịu úng, chịu rét và sâu bệnh.
- Thông qua gốc ghép có thể điều tiết được sự sinh trưởng của cây ghép.
- Cókhả năng phục hồi sinh trưởng của cây, duy trì giống quý thông qua các phương pháp ghép như: ghép nối cầu hay ghép tiếp rễ.
* Yêu cầu của giống gốc ghép
- Giống làm gốc ghép phải sinh trưởng khoẻ có khả năng thích ứng rộng với điều kiện địa phương.
- Giống làm gốc ghép phải có khả năng tiếp hợp tốt với thân cành ghép.
- Giống làm gốc ghép phải có khả năng chống chịu sâu bệnh và có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận.
- Giống làm gốc ghép phải sinh trưởng nhanh, dễ gây giống, ít mọc mầm phụ ở gốc cây con.
* Những yêu cầu kỹ thuật để nâng cao tỷ lệ ghép sống và tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn
- Chăm sóc cây con trước khi ghép: sau khi ra ngôi cần áp dụng đầy đủ
các quy trình khác của kỹ thuật chăm sóc để cây gốc ghép sớm đạt tiêu
chuẩn ghép. Trước khi ghép 1 - 2 tuần cần tiến hành vệ sinh vườn cây gốc
ghép và tăng cường chăm sóc để cây có nhiều nhựa, tượng tầng hoạt động
tốt.
- Chọn cành, mắt ghép tốt: cành ghép được lấy từ vườn chuyên lấy cành
ghép hoặc trên vườn sản xuất với những cây mang đầy đủ các đặc tính của
giống muốn nhân. Cành ghép được chọn ở giữa tầng tán, không có các đối
tượng sâu bệnh nguy hiểm gây hại. Tuổi cành ghép chọn phù hợp tuỳ thuộc
vào thời vụ ghép khác nhau. Trong điều kiện cần vận chuyển đi xa, cần
bảo quản trong điều kiện đủ ẩm, tránh nhiệt độ cao.
- Chọn thời vụ ghép tốt: trong điều kiện khí hậu miền Bắc nước ta, đa số
các giống cây ăn quả được tập trung ghép vào vụ xuân và vụ thu.
- Thao tác kỹ thuật ghép: đây là khâu kỹ thuật có tính chất quyết định,
phụ thuộc vào sự thành thạo của người ghép. Các thao tác ghép cần được
tiến hành nhanh và chính xác.
- Chăm sóc cây con sau khi ghép: tất cả các khâu kỹ thuật từ mở dây sau
ghép, xử lý ngọn gốc ghép, tỉa mầm dại, tưới nước làm cỏ, bón phân, tạo
hình cây ghép cho tới công tác phòng trừ sâu bệnh hại cần được tuân
thủ một cách nghiêm ngặt, đúng kỹ thuật.
* Các phương pháp ghép:
+ Tuỳ thuộc vào mục đích áp dụng, từng đối tượng cây ăn quả mà có thể sử
dụng các phương pháp khác nhau. Một số phương pháp ghép chủ yếu đang
được áp dụng để nhân giống cây ăn quả được chia thành hai nhóm là ghép
mắt và ghép cành.
+ Nhóm các phương pháp ghép mắt.
- Phương pháp ghép mắt cửa sổ.
Phương pháp ghép mắt cửa sổ thường được áp dụng với các chủng loại cây ăn quả dễ bóc vỏ, có thân cành dễ lấy mắt, mắt ghép lớn.
Trên gốc ghép, cách mặt đất 25 - 30 cm, chọn vị trí không có nhánh hoặc
mầm ngủ, tiến hành mở vết ghép có dạng cửa sổ và bóc bỏ phần vỏ. Trên
cành ghép, chọn vị trí có mầm ngủ, cắt một phần khoanh vỏ có chứa mầm
ngủ với kích thước tương tự hoặc nhỏ hơn vết mở trên gốc ghép. Đặt mắt
ghép vào gốc ghép và dùng dây nilon cuốn lại, lưu ý cuốn kín dây từ dưới
lên trên một lượt để tránh nước mưa thấm vào và cố định dây ghép.
Sau ghép 15 - 20 ngày tuỳ thuộc vào chủng loại cây ăn quả, tiến hành cởi
dây ghép. Nếu mắt ghép còn xanh thì sau 2 - 3 ngày tiến hành cắt ngọn
gốc ghép, áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc cây con sau khi ghép.
- Phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ
Phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ được áp dụng để nhân giống hồng, các cây ăn quả có múi và một số chủng loại cây ăn quả khác.
Trên gốc ghép, ở độ cao cách mặt đất 25 - 30 cm, chọn vị trí không có
nhánh hoặc mầm ngủ, tiến hành mở gốc ghép có dạng hình lưỡi của gốc
ghép. Trên cành ghép, chọn vị trí có mầm ngủ, cắt lấy mắt ghép dạng hình
lưỡi có một phần gỗ tương tự như trên gốc ghép. Đặt mắt ghép vào gốc
ghép và dùng dây nilon cuốn lại, lưu ý cuốn kín dây từ dưới lên trên một
lượt để tránh nước mưa thấm vào và cố định dây ghép. Trường hợp mắt
ghép nhỏ hơn so với vết mở trên gốc ghép thì đặt mắt ghép lệch về một
bên để có ít nhất một phía tượng tầng được trùng khớp.
Sau ghép 20 - 25 ngày tuỳ thuộc vào chủng loại cây ăn quả, tiến hành cởi
dây ghép. Nếu mắt ghép còn xanh thì sau 2 - 3 ngày tiến hành cắt ngọn
gốc ghép, áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc cây con sau khi ghép.
+ Nhóm các phương pháp ghép cành
- Phương pháp ghép áp
Phương pháp ghép áp được áp dụng chủ yếu để nhân giống trồng với số
lượng nhỏ hoặc áp dụng với những cây ăn quả khó nhân giống bằng các
phương pháp khác.
Trên cành ghép và gốc ghép, mở vết cắt có kích thước tương tự nhau, dài
từ 8 - 10 cm, áp hai vết cắt vào nhau và cuốn kín lại bằng dây nilon,
dùng dây buộc cố định của gốc ghép trên thân cây chọn cành ghép. Sau
ghép khoảng 1,5 - 2 tháng, tiến hành cởi dây ghép và cắt ngọn của gốc
ghép. Sau đó khoảng 7 - 10 ngày, cắt tiếp phần gốc của cành ghép và tạo
được cây giống hoàn chỉnh.
- Phương pháp ghép cành bên
Phương pháp ghép cành bên được sử dụng trong trường hợp cây gốc ghép khó
bóc vỏ để sử dụng các phương pháp ghép khác hoặc ghép trong mùa khô.
Trên gốc ghép, ở độ cao cách mặt đất 25 - 30 cm, mở vết cắt tương tự như
phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ nhưng có kích thước từ 2 - 3 cm. Trên
cành ghép, cắt một lát cắt tạo vết cắt dài, có kích thước tương tự như
vết mở trên gốc ghép, giữ lại 2 - 3 mầm ngủ. Cài cành ghép vào vết mở
của gốc ghép và dùng dây nilon cuốn kín lại. Cuốn dây nilon từ dưới lên
trên và cố định dây cuốn lần thứ nhất khi cuốn kín vết cắt, sau đó tiếp
tục cuốn dây một lượt lên trên và cố định dây ghép. Sau ghép 20 - 25
ngày, tiến hành cởi dây ghép đến vị trí cố định dây lần 1 và sau 1 - 2
ngày thì cắt ngọn gốc ghép. Khi cây có 1 - 2 đợt lộc ổn định thì cắt
tiếp phần còn lại của dây ghép.
- Phương pháp ghép đoạn cành
Phương pháp ghép đoạn cành được sử dụng để nhân giống hầu hết các đối tượng cây ăn quả thân gỗ.
Trên gốc ghép, ở độ cao cách mặt đất 25 - 30 cm, tiến hành cắt ngọn gốc
ghép (có giữ lại một vài lá gốc). Chọn cành ghép có đường kính tương tự
với đường kính gốc ghép, cắt một lát cắt tạo vết cắt dài 2 - 2,5 cm,
có 2 - 3 mầm ngủ. Chẻ một vết trên gốc ghép có chiều rộng và sâu tương
tự với kích thước của vết cắt trên cành ghép. Cài cành ghép vào gốc
ghép sao cho ít nhất có một phía tượng tầng được trùng khớp và dùng dây
nilon mỏng cuốn lại.
Trước hết cuốn nhiều vòng dây để cố định cành ghép vào gốc ghép, sau đó
trải rộng dây nilon và cuốn kín một lượt xung quanh cành ghép, đưa dây
nilon trở lại cố định dây tại gốc ghép. Sau ghép 15 - 20 ngày, mầm ghép
bắt đầu mọc xuyên qua dây cuốn, tiến hành các biện pháp chăm sóc cây
con sau khi ghép.
- Phương pháp ghép nêm.
Phương pháp ghép nêm được sử dụng cả nhân giống trong vườn ươm và ghép cải tạo vườn cây ăn quả.
Trên gốc ghép, cắt bỏ toàn bộ thân tán ở vị trí phù hợp, chọn cành ghép
và cắt cả hai phía tạo thành hình chiếc nêm. Chẻ đôi gốc ghép và cài
cành ghép sao cho phần tượng tầng phía ngoài của gốc ghép và cành ghép
được trùng khớp với nhau. Dùng dây nilon cuốn chặt cố định cành ghép với
gốc ghép và cuốn kín cành ghép để chống thoát hơi nước. Sau khi cành
ghép bật lộc, có 1 - 2 đợt lộc ổn định sinh trưởng thì tiến hành cắt bỏ
dây ghép. Sau đó áp dụng các biện pháp chăm sóc cây sau ghép như các
phương pháp ghép khác.
- Phương pháp ghép sửa chữa thân và sửa chữa rễ
Các phương pháp ghép này được sử dụng khi cần nối phần vỏ bị tổn thương của cây hoặc cải tạo bộ rễ cây đã bị gây hại.
Đối với phương pháp ghép sửa chữa thân, sử dụng các đoạn cành của cùng
giống cây ăn quả ghép nối lại phần vỏ qua vị trí bị tổn thương. Trên
cành ghép, cắt tạo vết cắt tương tự như mở vết cắt của phương pháp ghép
cành bên nhưng dài từ 3 - 5 cm ở cả hai đầu của đoạn cành. Trên thân
cây, bóc vỏ mở vết ghép có kích thước tương tự với vết cắt của cành
ghép. Cài cành ghép vào thân cây và cuốn kín lại bằng dây nilon. Khi vết
ghép gắn liền, tiến hành cởi dây ghép.
Đối với phương pháp ghép sửa chữa rễ, tiến hành trồng các cây gốc ghép
xung quanh gốc cây cần ghép sửa chữa, cắt ngọn gốc ghép tạo vết cắt
tương tự như đoạn cành của phương pháp ghép sửa chữa thân, bóc vỏ mở vết
ghép có kích thước tương tự với vết cắt của cành ghép. Cài vết cắt của
gốc ghép vào thân cây và cuốn kín vết ghép bằng dây nilon khi vết ghép
gắn liền, tiến hành cởi dây ghép.