Hồng
MC1 có nguồn gốc từ hồng giòn Fuyu, nhập nội từ Nhật Bản, do PGS-TS Đỗ
Năng Vịnh, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp và cộng sự nghiên
cứu, chọn tạo, khảo nghiệm tại Mộc Châu (Sơn La). Quả hồng được dùng
rộng rãi để ăn tươi cũng như phơi khô. Quả hồng còn dùng để làm thuốc.
Cây
hồng (Diospyros kaki T.) là một trong những loại cây ăn quả quan trọng
của nước Châu Á thuộc miền ôn đới như Hồng Kông, Nhật Bản, Triều Tiên,
Việt Nam,… và là một trong những cây ăn quả Á nhiệt đới chịu rét nhất.
Thích hợp trồng ở các vùng núi phía Bắc Việt Nam như: Sơn La, Lào Cai.
Hồng MC1 có nguồn gốc từ hồng giòn Fuyu, nhập nội từ Nhật Bản, do PGS-TS
Đỗ Năng Vịnh, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp và cộng sự
nghiên cứu, chọn tạo, khảo nghiệm tại Mộc Châu (Sơn La).
Quả hồng chứa 12 – 16% đường, chủ yếu là đường glucose và fructoze,
lượng axít thấp 0,1%. Trong 100g thịt quả có chứa 0,16mg caroten, 16mg
vitamin C, ngoài ra còn có vitamin PP, B1, B2 và các hợp chất hữu cơ…Quả
hồng được dùng rộng rãi để ăn tươi cũng như phơi khô. Trong khi phơi
khô chúng được phủ 1 lớp đường và lượng đường có thể tăng đến 60 – 62%.
Quả hồng còn dùng để làm thuốc. Theo GS. Vũ Văn Chuyên (1985), quả hồng
ngâm rượu uống là một vị thuốc bổ để chống suy nhược. Tai quả phơi hoặc
sấy khô gọi là “Thị đế” dùng chữa ho, nấc, đầy bụng. Khi làm mứt, đường
tiết ra gọi là “Thị sương” có đường manit dùng chữa đau và khô cổ họng.
Nước ép từ quả hồng chưa chín phơi hay sấy khô gọi là “Thị tất” dùng
chữa huyết áp cao.
KỸ THUẬT TRỒNG
1. Chuẩn bị đất trồng – Phát quang: Dọn cỏ và cây bụi để cây có đủ ánh sáng sinh trưởng và phát triển.
– Thiết kế: Đất có độ dốc < 100 thiết kế như trên đất bằng (bố trí
trồng cây theo hình chữ nhật, hình vuông hay hình tam giác). Đất có độ
dốc > 100 thì phải thiết kế và trồng cây theo đường đồng mức (dùng
thước chữ A).
– Mật độ: Tùy đất trồng mà khoảng cách giữa các cây có thể là: 4m x 4m; 5m x 5m hoặc 8m x 8m.
– Đào hố, bón lót: Đào hố kích thước 80cm x 80cm x 80cm, dùng 50 – 100k
phân chuồng hoai mục cùng với 1kg lân super, 0,5kg kali clorua và 1kg
vôi bột trộn đều với đất phù sa hoặc màu (tầng đất mặt), lấp đất cao hơn
mặt hố một chút (chuẩn bị trước khi trồng 1 – 2 tháng).
2. Kỹ thuật trồng
a. Tiêu chuẩn cây giống Cây giống là cây ghép được trồng trong bầu PE
hoặc ở dạng rễ trần. Tiêu chuẩn cây giống cho trồng mới TT Chỉ tiêu Loại
I Loại II 1 Chiều cao cây tính từ mặt bầu hoặc mặt bầu đất (cm) > 60
50 – 60 2 Đường kính gốc ghép đo cách mặt bầu hoặc mặt bầu đất 10cm
(cm) 1 – 1,2 0,8 – 1,0 3 Đường kính cành ghép đo cách vết ghép 2cm (cm)
0,8 – 1 0,6 – 0,8 4 Chiều dài cành ghép tính từ vết ghép (cm) > 45 30
– 45
b. Thời vụ trồng Tốt nhất là trồng vào tháng 1 -2 dương lịch (trước và
sau tết nguyên đán). Khi cây rụng lá, ngừng sinh trưởng, trong cây chứa
nhiều chất dự trữ nhất nên dễ sống, khi trời bớt lạnh mầm mới bật ngay.
Cách trồng: Dùng cuốc bới tâm hố đã chuẩn bị trước 1 – 2 tháng, xé bỏ
túi bầu PE, đặt cây vào giữa hố, lấp đất bằng mặt bầu cây giống, nhấn
chặt đều, dùng cọc đóng chéo buộc cố định, tưới đẫm nước. Sau đó thường
xuyên giữ đủ ẩm cho cây.
3. Kỹ thuật chăm sóc
a. Chăm sóc thời kỳ cây chưa mang quả
– Tưới nước, giữ ẩm, làm cỏ: Thời kỳ mới trồng phải thường xuyên tưới đủ
ẩm cho cây, làm sạch cỏ gốc đồng thời tủ cỏ khô xung quanh gốc để giữ
ẩm.
- Bón phân: Trong 3 năm đầu lượng phân bón cho 1 cây là: 100g Urê, 100g
supe lân, 100g kali sunphát (hoặc kali clorua) chia 3 lần bón:
+ Tháng 1 – 2: Bón 100% lân + 50% kali + 30% đạm. + Tháng 4 – 5: Bón 20% kali + 30% đạm.
+ Tháng 8: Bón nốt sô phân còn lại.
Cách bón: Đào sâu 15 – 20cm quanh tán, cách gốc 30 – 40cm, rải đều phân, lấp đất kỹ, tưới đủ ẩm và tủ gốc bằng cỏ khô.
– Đốn tỉa tạo hình: Cây hồng vừa đem trồng đã phải đốn tạo hình ngay,
chỉ giữ một thân chính, cắt cụt hết các cành để cây bật ra các cành mới
khỏe. Chọn trên thân chính 3 cành khỏe mọc ra 3 hướng khác nhau để làm
cành khung. Cuối năm thứ nhất chủ yếu là cắt ngắn các cành khung cấp 1
chỉ để 2 – 3 cành khung cấp 2 vào các vị trí thích hợp sao cho các cành
đều hướng ra ngoài. Cuối năm thứ 2 chủ yếu là cắt ngắn các cành khung
cấp 3. Hết năm thứ 3 coi như tán cây hồng đã ổn định, cây hồng bắt đầu
bói quả và bước sang thời kỳ đốn tạo quả.
– Đốn tạo quả: Đốn tạo quả phải căn cứ vào đặc tính ra hoa của cây hồng:
cành quả chỉ sinh ra trên cành mẹ đã mọc từ năm trước. Cành mẹ chỉ sinh
ra cành quả ở búp thứ nhất đến búp thứ 3 tính từ ngọn xuống.
Nguyên tắc cơ bản của đốn tạo quả là không đốn hớt ngọn vì sẽ cắt bỏ
những búp sinh ra cành quả. Bởi vậy, nghĩa là cắt từ chân loại bỏ hẳn
những cành mẹ quá yếu. Cành đã ra quả rồi mà yếu cũng phải cắt tận chân,
mặt khác nếu cành khỏe cũng cắt phía trên nơi đã có quả, để lại 1 – 2
mầm, những mầm này năm sau sẽ phát triển thành cành mẹ và sẽ chọn ở gốc
cành 1 – 2 cành mẹ khỏe nhất. Như vậy, những cành mẹ năm nay phải được
chuẩn bị từ năm trước bằng kỹ thuật đốn thích hợp, không đốn thì số cành
mẹ sẽ khá nhiều, yếu ớt, quả sẽ bé. Những cành mẹ năm nay nếu được
hướng dẫn, chọn lựa và đốn tỉa đúng kỹ thuật thì năm sau sẽ sinh ra
những cành quả khỏe với số lượng quả vừa phải ở những vị trí cần thiết.
b. Chăm sóc thời kỳ cây mang quả:
– Tưới nước, giữ ẩm, làm cỏ: Tưới đủ ẩm cho cây 2 lần/tháng, nếu có mưa
thì thôi, tủ cỏ khô quanh gốc giữ ẩm. Hàng tháng làm sạch cỏ gốc và cứ 3
tháng/lần làm sạch coe băng. – Bón phân: Lượng phân bón từ năm thứ 4
trở đi (kg/cây) Tuổi cây Đạm urê Supe lân Kali clorua 4 – 5 6 – 7 8 – 10
11 – 14 15 – 20 > 20 0,2 0,3 0,4 0,6 0,8 1,2 0,3 0,4 0,6 0,8 1,2 1,7
0,2 0,2 0,3 0,4 0,6 0,8
– Phân chuồng: 2 năm bón 1 lần với lượng từ 30 – 50 kg/cây. Cách bón:
Đào rãnh sâu 20cm, rộng 20cm theo hình chiếu mép tán, luân phiên theo
lần bón, chia 3 lần: + Tháng 5 – 6: Bón 20% lân + 25% kali + 20% đạm. +
Tháng 9 – 10: Bón số phân còn lại.
4. Một số sâu, bệnh chính và biện pháp phòng trừ
a. Sâu hại:
– Sâu đục quả (Kakivoria flovofasciata Nasano): là sâu non của một loại
bướm đêm xuất hiện vào tháng 5 – 7. Trứng đẻ ở cuống hoặc tai quả, sâu
non vừa nở ra đã đục vào tâm và làm quả rụng. Diệt trừ bằng cách nhặt
quả non bị sâu đục đem hủy, phun Trebon 0,1% khi sâu mới xuất hiện
– Rệp sáp: Thường tập trung gây hại ở búp lá non, tai quả non vào khoảng
tháng 2 – 3. Trừ rệp bằng cách phun Supracide 0,1% hay Trebon 0,1%.
– Sâu đo (Perenia graffate Guenee): phát sinh vào tháng 5, tháng 9,
thường ăn trụi lá hồng. Diệt trừ bằng cách phun Decis 0,1%, Polytrin
0,1%.
b. Bệnh hại:
– Bệnh giác ban hại hồng (Cercospora kaki): Hại lá và tai quả hồng bằng
những vết không đều: phía giữa màu nâu sáng, phía ngoài sẫm hơn. Bệnh
thường phát sinh vào tháng 7, 8, 9 làm rụng lá, quả héo rụng. Phòng trừ
bằng cách nhặt và đốt lá bệnh, phun Bordeaux 1%.
– Bệnh đốm tròn (Mycosphaerella nacwae): Phá hại lá từ tháng 7, 8; tháng
9 càng nặng. Vết bệnh tròn, ở giữa màu nâu nhạt, xung quanh màu nhạt
hơn, nhưng ở lưng lá thì xung quanh màu xám. Vết bệnh càng già càng sẫm
hơn, lá chuyển sang màu đỏ rồi rụng. Phòng trừ bằng cách nhặt và đốt hết
lá bệnh, phun Bordeaux 1% hoặc Kasuran 0,1%.
Ngoài ra còn có bệnh thán thư (Gleosporium kaki) và bệnh phấn trắng (Phyllactinia kakicola) gây hại trên lá, thân và quả hồng.
5. Thu hoạch và bảo quản
a. Thu hoạch ở miền Bắc, hồng ngâm chín từ cuối tháng 8, 9, 10; hồng
giấm chín vào tháng 10, 11, 12. Trên cùng 1 cây có quả chín trước, quả
chín sau, khi thu hoạch phải biết phân biệt để hái, quả chín trước hái
trước. Quả chín thì màu quả chuyển từ xanh sang vàng hoặc vàng đỏ rồi đỏ
dần. Hái đúng độ chín thì chất lượng quả tốt hơn, nên hái vào buổi sáng
hoặc chiều mát.
b. Bảo quản Sau khi thu hái, quả hồng đang ở trạng thái cứng, có thể vận
chuyển đi xa và bảo quản trong thời gian dài với những phương pháp
thích hợp sau khi đã cắt sát cuống quả và loại bỏ hết những quả dập nát,
sứt vỏ, mất tai, chín mềm, quả bị sâu bệnh,… Có thể bảo quản bằng cách
rải thành lớp mỏng nơi thoáng mát và khô. Quả hồng hái xuống dù đã chín
ăn vẫn chát (trừ một vài giống) vì trong dịch quả có chất tanin dưới
dạng hòa tan, sau khi khử chát, tanin vẫn ở trong quả nhưng chuyển sang
dạng không hòa tan nên không cảm thấy chát nữa. Có nhiều cách khử chát
như:
– Ngâm hồng: thường dùng đối với hồng Hạc Trì, Vĩnh Lạc, Lạng Sơn,..Dùng
chum hoặc vại sành xếp quả hồng vào rồi đổ nước sạch ngập sâu 20cm,
ngâm trong 2 – 3 ngày, mỗi ngày thay nước một lần. Sau khi ngâm, vớt
hồng ra rửa lại bằng nước sạch cho hết nhớt xung quanh quả, để ráo nước
một ngày là ăn được.
Chú ý: Không ngâm bằng nước mưa và có một vài loại hồng phải ngâm trong nước tro lọc hoặc nước vôi trong.
– Giấm hồng: Rửa sạch quả, để khô, xếp vào chum vại kín, ở giữa để một ống thoát hơi đan bằng tre nứa.
+ Xử lý bằng hương đen: Đốt 2 – 3 que hương đen trong ống thoát hơi, bịt
kín miệng chum vại 24 giờ, sau đó xếp quả hồng ra nơi mát, 3 – 4 ngày
sau quả mềm là ăn được.
+ Xử lý bằng đất đèn: Cứ 15 dm3 dung tích chum vại dùng 5g đất đèn, bên
dưới ống thoát hơi đặt một bát nước con, bỏ đất đèn vào bát, bịt kín
miệng chum vại, 24 giờ sau lấy ra để ở nơi mát 3 – 4 ngày là ăn được.
+ Giấm lá xoan: Lá xoan xếp dưới cùng rồi xếp hồng, cứ một lớp lá một lớp hồng, sau đậy kín, khoảng 2 – 4 ngày bỏ ra là ăn được.
+ Xử lý bằng dung dịch Ethrel: Nhúng quả hồng trong dung dịch ethrel
thương phẩm nồng độ 0,6% trong 7 phút, sau đó bảo quản trong điều kiện
thoáng tự nhiên, sau 3 – 5 ngày là chín hết.
Để tạo điều kiện cho cây hồng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất
cao, chất lượng tốt. Chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ
thuật riêng biệt từ khâu chọn đất đến thời vụ đối với từng giống hồng,
các biện pháp chăm sóc đốn tỉa tạo hình,… và thu hoạch bảo quản quả
hồng. Có thực hiện được như vậy thì sản phẩm hồng mới đảm bảo được chất
lượng tốt, đạt hiệu quả kinh tế cao./.