Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

Quýt khỏe nhờ đạm

Quýt khỏe nhờ đạm

Quýt đường có thể trồng trên nhiều loại đất với điều kiện tưới tiêu tốt. Trong điều kiện đất đai màu mỡ, tơi xốp và thông thoáng, độ pH từ 6 - 6,5 là rất lý tưởng.

Yêu cầu nhiệt độ biến thiên từ 13 - 39 độ C, thích hợp từ 23 - 29 độ C, đưới 13 độ C cây ngừng sinh trưởng và dưới 5 độ C cây chết.

Điều kiện khí hậu như nhiệt độ, ánh sáng và đất đai ở vùng ĐBSCL phù hợp cho việc phát triển trồng quýt đường và thường cho trái chín sớm, có vị ngọt và thơm. Tuy nhiên, cần chú ý bón phân đúng kỹ thuật để làm tăng năng suất và chất lượng trái.

Phân bón và cách bón phân: Phân đạm ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng trái hơn bất cứ yếu tố phân bón khác. Gia tăng bón đạm làm tăng số lá, chiều dài chồi, tổng số diện tích lá và đường kính thân. Phân lân tăng khả năng phát triển rễ, tăng cường hấp thu đạm. Phân kali tăng phẩm chất trái, làm cho trái có vị ngọt và làm cứng cây, tăng khả năng chống chịu điều kiện bất lợi về sâu bệnh và ngoại cảnh…

Ngoài các yếu tố đa lượng như đạm, lân, kali, cây quýt cần nhiều yếu tố trung lượng và vi lượng khác cho nên cần bón bổ sung phân hữu cơ hoặc vi sinh càng nhiều càng tốt và phun các loại phân bón lá được khuyến cáo.

Lượng phân bón (kg/cây) áp dụng theo tuổi cây như sau: Cây từ 1 - 3 năm phân hữu cơ là 20 - 25kg, urea 0,2 - 0,3kg; phân lân 0,5 - 0,7kg, kali 0,2kg. Cây từ 4 - 6 năm phân hữu cơ 25 - 50kg, urea 0,5 - 0,6kg, lân 0,8 - 1,2kg, kali 0,3kg. Cây từ 7 - 8 năm trở lên phân hữu cơ 60 - 90kg, urea 0,8 - 1,0kg, lân 1,2 - 1,5kg, kali 0,5 kg.

Cách bón phân: Đối với cây đang cho quả bón làm 4 lần. Lần 1 thường bón vào tháng 9 - 11 với toàn bộ phân hữu cơ, lân và vôi (nếu có). Lần 2 bón kích thích ra hoa, ra cành non khoảng tháng 1 - 2 với 40% phân urea + 30% lượng kali. Lần 3 bón thúc quả và chống rụng quả vào tháng 5 với 30% lượng urea + 40% lượng kali. Lần 4 bón thúc cành mùa thu vào tháng 7 - 8 để tăng khối lượng quả với 30% urea + 30% lượng kali. Khi quýt đậu quả 10 - 15 ngày có thể phun các loại phân bón lá theo khuyến cáo.

Phương pháp bón: Bón lót: Đào rãnh quanh tán lá sâu 20 - 30cm, rộng 30 - 40cm cho phân hữu cơ, lân và vôi xuống lấp đất lại, ủ rơm rạ lên trên và tưới nước. Bón thúc: Xới nhẹ đất theo tán cây sau đó rải phân rồi xới chôn phân xuống dưới và tưới nước cho phân ngấm vào đất.

Sâu bệnh và dịch hại trên cây quýt hồng

Sâu bệnh và dịch hại trên cây quýt hồng

Những bệnh thường gặp ở cây Quýt Hồng là: vàng lá nhỏ, nhỏ lá, bông lá - đốm lá, chảy mủ gốc và phăng nhánh - nhánh nhỏ khô dần

1. Bệnh của cây quýt

- Quýt Hồng trồng ở bất cứ đất nào: bùn bồi, sét, đất thịt, trong một vài năm đầu cây phát triển rất tốt. Sau đó cây bắt đầu có triệu chứng bệnh (nhất là ở đất bùn bồi).

- Những bệnh thường gặp ở cây Quýt Hồng là: vàng lá nhỏ, nhỏ lá, bông lá (đốm lá) chảy mủ gốc và phăng nhánh (nhánh nhỏ khô dần).

a. Bệnh vàng lá:

Quýt Hồng thường bị vàng lá từ một năm tuổi trở đi. Sau khi ra đọt non, lá mỏng không xanh và dần dần ngả màu vàng. Có khi vàng hết cả cây có khi chỉ một vài nhánh. Thường thì do các nguyên nhân sau đây:

- Vàng lá do thối rễ:

Nói cây bị thối rễ vàng lá thì hầu như người làm vườn nào cũng biết, nhưng biết chính xác nguyên nhân làm cho Quýt Hồng thối rễ mới là điều quan trọng, vì từ đó ta mới tìm cách khắc phục hữu hiệu.

Nguyên nhân thối rẽ là:

- Bờ bị ngập nước.

- Nước đọng trên mặt bờ vào mùa mưa.

- Nước đọng gốc quýt trong mùa mưa (nước mưa chảy từ trên thân cây xuống gốc theo rễ và đọng lại quanh rễ nếu vùng rễ nào nước không rút).

- Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hai tháng mưa nhiều, lại nhằm vào mùa nước ngập hoặc vùng gần biển, mực nước bình thường cũng vẫn cao so với mặt bờ vườn, vì thế nước mưa không rút hết.

Phòng trị:

- Không nên làm bờ bề mặt quá rộng

- Nên khai rãnh để nước thoát nhanh.

- Dù mặt nước không ngập nước, vẫn phải đắp mở cao từ 3 – 4 tấc để trồng cây, hàng năm chỉ bồi mô, không nên lấp mặt bờ vằng mặt mô.

- Bắt đầu mưa nhiều, mỗi gốc quýt đều khai rãnh để thoát nước chảy từ trên thân xuống.

- Nếu có thể ta dùng nilon để đậy mô khi mưa nhiều.

Trường hợp cây đã bị bệnh:


- Nếu cây từ 3 năm tuổi trở lại ta có thể cứu sống 50 – 70% nhưng phải mất thời gian ít nhất là 1 năm (3 lần ra đọt).

- Cây từ 4 năm tuổi trở lên hoặc đã mang trái, bộ rễ phát triển chậm nên cây bệnh khó phục hồi. Có trái thì trái cũng không tốt, tốt hơn là bứng hết gốc rễ đắp mô trồng cây khác.

Cách chữa thông thường:

Trước tiên là đào tìm những rễ thối, đục bỏ phần hư, rồi lấp copper-zinc hoặc thanh phèn vôi thoa vào vết chặt đứt đó. Kể đó dùng xà beng xén đứt hết rễ xung quanh gốc đường kính từ 0,8 – 1m (tùy cây lớn hay nhỏ). Mục đích là tạo bộ rễ mới nhiều hơn để có thể thay thế những rễ đã đục mất. Xong ta dùng thuốc kích thích ra rễ pha nước tưới xung quanh cho rễ mau phát triển. Tưới nước ít và đều, không dùng phân.

Một tháng sau, những vết bị chặt đứt bắt đầu ra rễ phụ, ta có thể dùng phân trỡ lại.

Vàng lá do dùng phân và tưới nước không thấm sâu vào đất

Trường hợp này thường xảy ra đầu màu vụ. Khi tưới cho cây ra đọt ra bông, lá quýt non không xanh, không lớn và ngả sang màu vàng đều vườn, trái non thường teo và rụng nhiều.

Nguyên nhân:

- Mặt bờ vườn lâu năm đất dẽ, khi tưới lấy bông thường bón phân nhiều. Nước tưới không thấm sâu vào đất, phân tan không loãng ra. Gặp thời tiết quá nóng, môi trường phân, nước và sức nóng mặt trời làm ẩm độ thấp, rễ non mới ra không chịu nổi phải thối đi, mất khả năng hấp thụ nước và dưỡng chất làm cho bộ lá non không phát triển và dần dần xuống màu.

Phòng trị:

- Nhận xét mặt bờ vườn không xốp nên dùng xà beng đầu nhọn xới đều bờ (hạn chế đứt rễ) trước khi tưới cho ra đọt ra bông.

- Tưới nước thật nhiều 3 ngày đầu, sau đó bớt nước, tưới đều để phân loãng ra và tan sâu vào đất.

- Nên dùng cỏ khô hay rơm rạ đậy bờ để giữ độ ẩm đều.

- Sau 1 tuần lễ nên thăm chừng mặt đất, nếu sâu 2 tấc, đất còn cứng là nước chưa thấm cần tưới thêm.

Nếu mặt đất lèn (quá mềm) là dư nước tưới bớt lại .

- Nếu đúng nguyên nhân trên và đều vườn lá đã xuống màu, ta tưới thêm nước cho đủ ẩm, có thể dùng phân bón lá (15-30-15) và thuốc dưỡng cây xịt tiếp sức 1 tuần/lần liên tiếp vài ba lần.

Vàng lá do nấm, vi khuẩn, virus gây ra

Theo một số tài liệu khoa học và nghiên cứu của các chuyên gia, kỹ sư về bệnh này, thì ngoài nguyên nhân do thối rễ, cam quýt còn mắc các bệnh do nấm, do vi khuẩn v.v…Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta hiện nay chưa có mấy xét nghiệm để xác định chính xác cam quýt (nhất là Quýt Hồng) mắc bệnh do gì, đất trồng thiếu chất gì và đồng thời chế ra loại thuốc đặc trị.

Do kinh nghiệm nghiên cứu về nguyên nhân này chúng tôi cũng có dùng Aliette hoặc Aincocin để phòng ngừa mỗi năm, còn điều trị một cây bị bệnh thật sự thì kết quả không khả quan lắm. Vì điều trị một cây vàng lá ta cũng không chắc là nó có phải bị nấm hay không?

b. Bệnh bông lá:

Bệnh bông lá hay đốm lá thường xảy ra vào mùa mưa. Bệnh này thỉnh thoảng gặp nhưng không nguy hiểm đến cây. Cây chỉ mất sức vì từng đọt đó già rụng đi, từng đọt sau sẽ hết lá xanh trở lại.

Theo tài liệu khoa học, bệnh này do một loại vi khuẩn xâm nhập vào lá non lúc ẩm ướt do tưới nước nhiều hoặc mưa nhiều. Nhìn kỹ lá bị đốm, vết đốm thấu qua hai mặt.

Còn một loại đốm lá thứ hai nhẹ hơn do nấm, cũng tác hại vào lá non trên một mặt lá.

Cả hai loại đốm lá, lúc đầu màu vàng nhạt, sau đó trở nên màu nâu và đen, dính chùm nhau rất khó phân biệt. Cả hai loại đốm đều có ảnh hưởng đến trái vì hễ thấy có đốm lá thì trái lại bị đốm. Do đó nên xịt ngừa khi lá non và tiếp tục trị khi thấy đốm xuất hiện trên trái. Thuốc có thể phòng trị như: Kasuran, Benlat C, Bavistin, Ridomil v.v…Xịt 1 tuần/lần xịt liên tục vài ba lần sau đó ngừa trái bị đốm 1 tháng/lần.

c. Bệnh phăng nhánh (nhánh chết nhát):

Bệnh này thường gặp trên cây quýt có trái vài mùa trở lên. Có khi nhánh khô từ trong thân cây, có khi ngoài chót đọt những nhánh mang trái quá sai. Đây cũng là triệu chứng cây bắt đầu suy vì nó không đủ dinh dưỡng để cung cấp cho những nhánh vốn đã yếu sau thời gian mang trái. Cây có nhiều nhánh khô thì năm sau tất nhiên cây sẽ giảm trái. Nếu mùa trái kế tiếp, cây không phục hồi và không đâm chồi thêm mà tiếp tục khô nhánh thì cây sẽ chết vì một phần nhỏ bộ rễ thối mà cây không đến nỗi phải vàng lá. Nhưng dù sao ta cũng phải tỉa hết nhánh khô để cây gọn ghẽ dễ coi.

d. Bệnh chảy mủ gốc:

Bệnh chảy mủ gốc cũng làm cho cây mất sức và ngược lại cây suy yếu thường bị chảy mũi gốc. Có hai trường hợp chảy mủ:

- Chảy mủ do nứt da ở cây tơ: vì do bón một lần nhiều phân, cây lớn nhanh da gốc nở không kịp phải nứt và nếu gốc bị ẩm sẽ bị nhiễm trùng chảy máu mủ hoặc thối da. Trường hợp này không phải cây bệnh, chỉ cần giảm lượng phân và thoa thuốc, da từ từ lành. Thuốc có thể thoa phết các vết nứt như: Kasurran, Copper zine hoặc thanh phèn vôi.

- Chảy mủ do cây già suy: thường thì những vườn quýt già, gốc sần sùi lở lói là do bệnh chảy mủ gốc. Bệnh này phát triển nhiều nhất từ tháng 10 âm lịch cho đến khi mùa mưa tới, do một loại nấm làm khô da và “dộp” phồng lên, trước tiên thường chảy nước hôi thối, có khi là bọt bèo thích hợp cho dòi sinh sôi nảy nở. Mặt khác, vào những tháng này cây quýt già mạch nhựa cũng kém đi do bộ rễ đã nhiều lần thay đổi (thối một số rồi mọc lại một số) và mặt đất thì cằn cỗi mất đi nhiều màu mỡ:

Tóm lại, bệnh chảy mủ gốc phần lớn có ở vườn cây lâu năm. Vườn từ 6,7 năm trở lại ít khi bị bệnh.

Cách ngừa trị bệnh này thì cũng dễ

- Ngừa: vào cuối mùa mưa, ta dùng bàn chải và nước pha một ít muối (loãng) chà sạch từ mặt đất lên khảng 1 – 1,5m. Kế đó dùng thanh phèn vôi (có thể pha thêm Copper zine) phết đều gốc cây. Khi lớp vôi bị phai ta có thể phết thêm lần nữa mà khỏi phải rửa sạch. Như vậy trừ những tháng mưa, một năm ta có thể phết gốc quýt 2 lần.

- Trị các vết chảy mủ: dùng dao lóc sạch vết mủ bầy nhầy, xong dùng bàn chải rửa sạch rồi phết dung dịch thuốc nói trên một tuần/lần, lên tiếp 3 lần là khỏi hoặc thoa Aliette cũng tốt. Từ từ phần da bị cắt làm da non và lành lại.

2. Bệnh của trái quýt

a. Bệnh bông trái (đốm trái):

- Bệnh bông trái những năm gần đây phát triển rất nhiều, nhất là những vườn cây lâu năm, cây già (kể cả cây tơ trồng lại trên vườn cũ, trái vẫn bệnh). Theo tài liệu khoa học, bệnh này do một loại nấm gây hại. Và loại thuốc đặc trị hiện nay chưa có.

- Theo kinh nghiệm chúng tôi, thì bệnh này phát sinh vào lúc trái da lươn, tức là vào cuối mùa mưa. Nếu cùng một vườn cây mà có trái ngược mùa thì trái ít bị bệnh đốm. Như vậy có thể nói trong những tháng có ẩm độ cao, rễ dễ bị úng thủy là lúc các loại nấm thuận lợi tấn công và làm cho trái bệnh.

- Hình thức bệnh bông trái này lúc quýt gần da lươn là trên da có những dấu gần như lõm vào lần lần, da trái quýt càng chín thì những dấu lõm ngả màu nâu, rồi đen nên nhiều người gọi là bệnh “nốt ruồi”.

- Một hình thức bệnh nốt ruồi thứ hai trên cây tơ, ta dễ phát hiện, lúc cây ra đọt non khi lá bị đốm thì kèm theo trái cũng bị đốm. Lúc đầu, trái còn nhỏ những mụt màu vàng lợt nổi cộm trên da, lần lần ngả màu vàng sậm và trái chín những mụn này trở thành đen giống như “nốt ruồi”.

Phòng trị:

Hiện nay có vài loại thuốc phòng trị cũng có kết quả nhưng quá đắt tiền như: Benlat C, Zinneb, Copper zine v.v…Ngoài cách phun thuốc hàng tháng trên trái ta nên tưới thêm quanh gốc từ 10 – 12 g/m2 vài lần vào đầu mùa mưa và lúc trái bắt đầu da lươn, chứ đến lúc thấy bệnh xuất hiện thì không còn trị kịp nữa.

b. Bệnh da cám, da lu:

- Da cám: là một loại bệnh mà màu da quýt sần sùi màu xam xám giống như cam. Thường thì trái không lớn và khô đầu múi có khi khô nguyên trái. Quýt da cám có rải rác không phân biệt vườn già hay vườn tơ. Quýt bệnh loại này thì không bán được, vì trái quýt dù chín cũng có màu đẹp, ta nên bẻ bỏ càng sớm càng tốt.

- Da lu: là màu da trái quýt bị bệnh. Bệnh này hơi khác bệnh da cám, da quýt láng hơn nhưng thay vì màu vàng, da lịa có màu nâu giống như măng cụt hay vú sữa chín. Trái quýt màu da lu còn ăn được, múi quýt ít bị khô lại ngọt. Nhưng nói chung hai loại bệnh này đều làm cho Quýt Hồng mất giá trị kinh tế.

Phòng trị:

Đây là vấn đề lo âu của nhà vườn, vì hiện nay chưa có một cơ quan khoa học nông nghiệp nào phân chất đất và xác định nguyên nhân để phòng trị một cách chính xác cho các bệnh của Quýt Hồng. Tuy nhiên theo kinh nghiệm của chúng tôi, nếu vườn nào bị nhiều loại bệnh trên, nên giảm lượng phân lân và dùng thêm kali, tránh dùng loại phân DAP có nhiều chất dầu. Còn phòng trị, ta có thể áp dụng cách phòng trị như bệnh đốm trái.

Hiện nay có tài liệu cho rằng bệnh da lu là do nhện đỏ gây ra và dùng thuốc trừ sâu trừ nhện để xịt diệt. Tuy nhiên, nguyên do này còn trong vòng thử nghiệm thì năm nay (1997) chẳng lẽ do dịch nhện đỏ hay sao? Đa số vườn quýt đều bị bệnh trên từ 10% đến 80% (nay cả vườn năm rồi trái rất tốt có tiếng, năm nay trái vẫn bị nám đỏ nám đen).

Một số người chưa tin tưởng vào tài liệu thì cho rằng do sự lạm dụng thuốc xịt và phân bón lá làm tác hại đến da trái quýt.

Theo chúng tôi, thì thuốc hay phân bón lá đều có công hiệu của nó, nhưng nhiều người làm vườn chưa nắm vững phương pháp xịt nên đã pha chung nhiều thứ cùng lúc (chưa kể quá liều lượng), thuốc sinh phản ứng phụ làm da hại đến trái quýt. Đó là điều chắc chắn.

Để dung hòa giữa quan niệm xịt thuốc và không dám xịt thuốc dù quýt đã bị bệnh. Chúng tôi đề nghị:

- Xịt thuốc phòng ngừa hay điều trị bệnh gì đúng vào thời điểm giữa bệnh hay bệnh phát triển, khi thời kỳ đã qua ta nên ngưng.

- Không nên xịt phân bón lá cùng chung với thuốc trừ bệnh.

- Không nên xịt quá liều lượng và lúc trời nắng gắt.

c. Trái xanh, trái vàng rụng:

Trái xanh rụng hay trái vàng rụng: cũng là do hiện tượng thời tiết thay đổi mà thôi. Nhưng một phần cũng do cây yếu. Những lúc tiết trời quá nóng nhiệt độ tăng cao, chúng ta tưới nước có hạn, chỉ làm ướt gốc chứ không thể điều hòa không khí. Vì vậy cuống trái nhỉ teo dần, mạch nhựa lưu dẫn không đều, nếu gặp một vài đám mưa to, tiết trời mát mẻ cuống trái sẽ giãn nở đột ngột cho trái rụng.

Muốn hạn chế trái non rụng ta có thể nắm các điều kiện sau đây:

- Bón phân khi bắt đầu tưới vườn tương đối đủ dinh dưỡng để cây sung nuôi trái (như người đàn bà sanh cần có sức khỏe để có sửa cho con bú).

- Trong lúc thời tiết quá nóng kéo dài nhiều ngày, ta nên tưới nước thật nhiều (tưới cả trên cây càng tốt). Và nếu thấy trời sắp mưa, lại không nên giảm tưới để tránh sự giản nở đột ngột của cuống trái.

- Mới mưa một vài đám không nên bón phân vội, vì nếu trời nắng trở lại thì càng làm cho trái rụng nhiều hơn.

- Thời gian từ khi tưới đến mùa mưa bắt đầu, không nên làm cỏ vườn mà cần đậy thêm để mặt bờ không bị trơ trọi dễ bị thối rễ phấn. Đó cũng là nguyên nhân do rụng trái non và lá xuống màu.

3. Sâu hại đọt non

a. Sâu xanh và kiến đất:


Hai loại sâu đều phá hoại đọt quýt non ở bất cứ lúc nào. Sâu xanh cắn lá non, có khi ăn cụt tược nhưng không nguy hại bằng kiến đất. Khi kiến đất tấn công một cây nào thì trong một ngày có thể từng đọt non bị héo rũ hết. Vì vậy tốt hơn hết khi cây tơ ra đọt ta nên xịt ngừa một vài lần với Arosin hay Sumicin v.v…

b. Sâu vẽ bùa:

- Sâu vẽ bùa (SVB) có tên khoa học là Phyllocnistis Citrella. Chúng phá hại đọt non của cam quýt và gây hại nặng đối với vườn cam, quýt lúc ra bông, đậu trái. Mầm mống xuất hiện của SVB là ấu trùng nở từ trứng của một loại bướm đêm rất nhỏ (giống con bồ hóng bay vào đêm). Nhưng thực tế mắt ta khó thấy trứng và ấu trùng, đến khi phát hiện lá non của cam, quýt không xòe ra, một mép lá cuốn tròn và bắt đầu dị hình là đã bị SVB gây hại rồi.

- Quan sát kỹ một lá cam, quýt non bị SVB ta thấy mặt dưới lá như có một lớp kiếng mỏng và những chỉ đen ngoằn ngoèo nằm bên trong. Đó là SVB.

- Những đợt tưới vườn gặp vài đám mưa đầu mùa, thường vì SVB và có thể thất mùa. Nhìn toàn bột vườn cây ngả màu, từng lá quấn lại và dần dần rụng đi. Lá mất khả năng hấp thụ dưỡng khí và che bớt ánh nắng mặt trời nên những trái từng trên rụng nhiều.

Phòng trị:


Đối với SVB, khi phát hiện mới xịt thuốc trị thì không kết quả vì ấu trùng đã lớn thành sâu nằm kín trong lớp kiếng và lá thì quấn lại nên khó trừ. Xịt thuốc diệt được SVB lúc còn là trứng hoặc vừa nở thành ấu trùng. Tức là ta nên xịt ngừa sau khi tưới vườn từ 8 – 10 ngày với một trong các loại thuốc như: Sumialpha, Decis, Moni-tor v.v…với liều lượng chỉ dẩn trong toa. Cách 5 – 7 ngày sau, ta xịt hai lần.

4. Dịch hại của trái quýt


Cây quýt mang trái từ lúc hình thành đến lúc chín hao hớt không biết bao nhiêu. Sau thời gian trái rụng lúc còn nhỏ, đến trái da lươn lại gặp những dịch hại đục phá cho tới khi bẻ bán. Những dịch hại như bọ xít, bướm, ong, chuột, dơi v.v…

a. Bọ xít xanh, bọ xít vàng:


Loại này đeo bám vào trái quýt suốt ngày đêm và hút chất dinh dưỡng của trái làm cho trái quýt đỏ và rụng. Chúng rất khó trừ, vì gặp thuốc thì bay đi, hết thuốc thì đậu lại. Tuy nhiên ta cũng có thể xịt ngừa bằng Trebon hoặc Monitor 1 tuần/lần hoặc lấy bông gòn thấm thuốc nhét vào ống tre treo những nơi quýt sai chùm để cho chúng tránh xa trong thời gian quýt chín.

b. Ong bướm:

Hai loại này phá hại quýt cùng một lúc là dùng kim chích vào trái để hút nước làm cho trái quýt chảy nước và thối từng quầng rồi rụng. Ong thì phá hại ban ngày, còn bướm thì phá ban đêm.

- Ong rất khó trị và cũng có thể dùng cách trị bọ xít để trị luôn cả ong.

- Còn bướm ta có thể dùng đèn và vợt roi bắt hằng đêm hoặc treo chuối ta vừa cầm tay để nhử chúng đến ăn và chụp bắt.

c. Chuột dơi:

- Loại địch hại này tuy phá hại không nhiều nhưng cũng rất khó chịu và rất khó trừ. Chúng là những “tay” thường ăn trái ngon hơn cả. Những trái quýt trên đọt cây chín trước, to và ngọt là những mục tiêu cho chúng.

- Chuột thì có thể trừ được. Ta làm rập, bẫy gài trên những cây quýt có dấu hiệu chuột phá lần lượt bắt hết. Còn những chú dơi thì có thể dùng lưới giăng bắt dể hạn chế phần nào.

Tóm lại, những địch hại của quýt kể ra cũng nhiều loại, phá hại làm thất thu vườn cây trái. Chúng ta phải học tập kinh nghiệm và tìm hiểu về kỹ thuật canh tác để hạn chế những thiệt hại. Tuy nhiên không thể tránh được những thất thoát. Và đó là điều ta phải cố gắng để khắc phục.

Kỹ thuật Gầy - Nhân giống quýt Hồng

Kỹ thuật Gầy - Nhân giống quýt Hồng

Gầy giống bằng cây con là phương pháp tạo được nhiều cây giống nhất, vì là quá trình tạo cây con từ hột. Hột mang tính di truyền của cây mẹ.

1. Gầy giống bằng cây con:

Gầy giống bằng cây con là phương pháp tạo được nhiều cây giống nhất, vì là quá trình tạo cây con từ hột. Hột mang tính di truyền của cây mẹ. Do đó ta phải chọn những cây cho trái tốt để lấy hột. Trái phải chín tới, không sâu bệnh và lựa những hột đủ no đem gieo.

a. Cách gieo hột:

Hột Quýt Hồng là loại vỏ mỏng, không có thời gian ngủ nghỉ, khó để lâu, khi lấy hột xong là đem gieo ngay

Có hai cách gieo:

- Cách thứ nhất: xới nhuyễn một vùng đất làm nơi gieo, hoặc trong một cái chậu hay một cái thùng đựng đất, ròi rải hột quýt một lớp đều dày thừa tùy ý, xong rắt lên một lớp tro trấu trộn một tít thuốc trừ kiến, tưới nước mỗi ngày. Khi quýt con mọc lên hai lá mầm nên xịt thuốc trừ sâu cắn lá.

- Cách thứ hai:

+ Thay vì dùng tro trấu, ta dùng đất bùn một lớp dày chừng 2 – 3 phân phủ lên đất, rồi gắn hột quýt lún xuống ngập hột. Cách này không cần phải tưới khi mặt bùn còn mềm. Cũng phải nhớ giữ kiến xịt thuốc trừ sâu cắn lá.

+ Sau khi gieo hột được 1 tháng, ta lựa những cây mạnh mọc cao nhô để vào bầu nilon (đường kính từ 8 - 10 phân) với đất trộn phân hữu cơ và tro trấu. Từ tháng thứ 3 trở đi cây con cao khoảng 2 tấc, ta có thể giâm xuống đất được.

b. Cách giâm cây con:

Quýt con trong bầu giâm xuống cũng phải ngay hàng thẳng lối. Khoảng cách từ 4 – 5 tấc một cây, theo tường liếp nhỏ từ 0,8 – 1m và 2 liếp cách nhau một khoảng để có thể đi lại tưới hoặc ngồi chiết gốc hay bứng cây con được. Quýt con đem giâm nhờ có bầu nên ít héo, tuy nhiên ta cũng phải chăm sóc cẩn thận. Đất giâm phải xới tơi xốp và âm phân chuồng, tưới nước hàng ngày và mỗi tháng tưới phân từ 1 – 2 lần. Cần xịt thuốc trừ sâu kiến mỗi lần ra đọt non.

c. Chiết ngang gốc cây con:

Bộ rễ Quýt Hồng rễ dễ bị thối khi đọng nước hay ngập nước. trước đây khi nghề trồng Quýt Hồng chưa được phổ biến, nhà vườn để nguyên vẹn cây con đem trồng, nên những năm mưa nhiều hay nước ngập cao, cây quýt chết và thường là thối rễ cái và những rễ ăn sâu. Do vậy, muốn tạo bộ rễ ăn cạn trên mặt đất, về sau người ta chiết ngang gốc cây con trước khi đem ra cườn trồng.

Cách chiết cây con thì cũng tương tự như chiết một nhánh chiết. Khi cây con được 1 năm tuổi hoặc cây con có chiều cao 6 – 7 tấc trở lên là có thể chiết được.

Trước khi chiết ta nên bắt bỏ những nhánh ngang sát mặt đất và bầu chiết cao khỏi mặt đất trên dưới 2 tấc, tùy cây con cao hay thấp.

Sở dĩ không chiết sát mặt đất vì:

- Thứ nhất là thao tác trong lúc chiết được dễ dàng.

- Thứ hai là gốc chiết sau khi cắt đi có thể tái sinh.

Nghỉa là sau khi bầu ra rễ cắt đi ta vo phân tưới gốc còn lại sẽ đâm nhiều chồi non. Lực những chồi mập tốt chừa lại nhiều nhất là 2 chồi. Mỗi năm sau có thể chiết được 1 lần nữa.

Ưu khuyết điểm của vườn trồng cây con:

- Ưu điểm: trồng bằng cây con có thân to, tàn lớn, trái tốt, ít chống chỏi và sống lâu năm.

- Khuyết điểm: là thời gian ươm hột và giâm cây con ít nhất là 1 năm mới chiết ngang trồng được. Như vậy nếu lập vườn không chuẩn bị trước ta sẽ không có cây giống để trồng. Thời gian cây bắt đầu có trái cũng lâu hơn quýt chiết cành. Mặt khác cây lâu năm quả cao, có chống chỏi cũng khó và khó hái trái.

2. Gầy giống bằng phương pháp chiết nhánh

Nhánh chiết mang đầy đủ đặc tính di truyền của cây me, nên muốn gầy giống bằng nhánh chiết ta cũng phải lựa cây me có đầy đủ yếu tố ưu việt: Cây me không bệnh, trái to, trái ít nhiễm bệnh và nhất là cây tơ từ 2 – 4 năm tuổi.

- Nhánh chiết từ cây me là cây trồng bằng hột, cây sẽ phát triển mạnh nhưng chậm có trái từ 1 – 2 năm.

- Nhánh chiết từ cây mẹ nguyên là nhánh chiết có thể vừa phát triển vừa có trái. Ta phải bẻ bỏ trái non khi chưa đúng sức. Cành lá sau này cũng yếu ớt hơn và tuổi thọ ngắn hơn nhánh chiết từ cây trồng bằng hột.

Ưu khuyết điểm trồng cây bằng nhánh chiết:

- Nhánh chiết trồng rất mau có trái, khi trồng xuống đất, cây bắt đầu tốt là có thể có trái nhưng phải đợi cây đúng sức (từ 2,5 năm trở lên nếu tàn lớn là có thể để trái được).

- Dễ đậu trái hơn cây cao. Trái rất sai nhưng trái nhỏ, cây thấp, cành lá yếu ớt, nặng việc chống chỏi.

Tóm lại, lập vườn trồng cây bằng nhánh chiết mau hưởng huê lợi nhưng tuổi thọ kém hơn cây trồng bằng hột và càng lâu năm trái càng thưa thớt vì cành nhỏ khô dần. Nhìn vào cây trồng bằng nhánh chiết về giá thường khẳng khiu, sơ rơ không cân đối như một cây trồng bằng hột.

Cách chọn nhánh chiết:

Muốn một cây chiết trồng xuống đất mau phát triển, nhánh chiết dù từ một cây mẹ trồng bằng hột hay là một cây nhánh chiết, trước tiên cây mẹ phải tốt, không có triệu chứng vàng lá. Không chiết những nhánh gốc đâm ngang mang nhiều nhánh phụ. Nên lựa những nahn1h từng trên có hướng đâm lên (càng về ngọn càng tốt) trồng cây lớn, chót đọt nhỏ (đầu voi đuôi chuột)

3. Gầy giống bằng phương pháp tháp (ghép)

Có nhiều phương pháp tháp cây ăn trái như: Tháp áp, tháp đoạn cành, tháp mắt có dính thịt cây, tháp chữ T, tháp da (tháp cửa sổ). Nhưng đối với cam quýt phương pháp tháp mắt “tháp chữ T” hoặc “tháp da” là thích hợp nhất.

a. Tháp da (tháp cửa sổ)

Phương pháp này có tỉ lệ sống cao nhất và áp dụng cho quýt và các loại cây ăn trái khác dễ tách vỏ và chuyển nhựa tốt.

Cách tháp:

Chọn gốc tháp và cành tháp có độ tuổi và đường kính tương đương.

Trước tiên dùng dao lấy một miếng da trên nhánh có mắt ngủ cỡ 1 x 2cm. Giữ kỹ miếng da không làm dơ và ngược đầu. Kế đó cắt “cửa sổ” trên thân gốc tháp bằng với miếng da vừa lấy, cách mặt đất khoảng 20 – 30cm. Xong đặt miếng da vào khoảng “cửa sổ” và đậy cửa sổ lại. Lấy băng keo quấn chặt kín lại. Sau khoảng 10 phút mở băng keo ra và cắt miếng vỏ đậy ngoài. Nếu miếng da tháp liền và sống trên gốc tháp thì sau 3 – 5 ngày ta có thể cắt ngọn gốc tháp được. Cách cắt mặt tháp 2cm nghiêng một góc 45 độ về phía ngược chiều với mặt tháp.

b. Tháp chữ T:

“Tháp chữ T” là thay vì giống tháp cửa sổ ta mở miệng trên gốc tháp giống chữ T. Dùng dao rạch một lần ngang khoảng 1cm và 1 lần đứng độ 2cm giữa lằn ngang và thẳng gốc. Cắt một mắt tháp có cuống lá và 1 lớp thịt đứt ngọt, tránh làm dập thịt cây dính theo da. Xong đẩy mắt tháp có cuống lá vào khe chữ T (tránh làm ngược đầu). Dùng đây nilon hoặc băng keo băng chặt kín vết tháp lại.

Sau 10 ngày đến 2 tuần lễ mở đây buộc và kiểm tra miếng da tháp. Nếu da sống và liền gốc tháp thì da còn tươi và cuống lá vàng rụng đi. Năm ngày sau có thể cắt ngọn gốc tháp được. Phải xem miếng da thật kỹ và chắc sống thì hãy cắt ngọn gốc tháp, nếu không ta có thể tháp lại.

c. Tháp mắt nhỏ có dính thịt cây:

Cách tháp:

Chọn những tược đứng non tốt, mập mạnh để làm nhánh tháp, cách mặt đất từ 1 – 2 tấc có kèm theo vỏ một lớp thịt mỏng. Chiều dài 1 – 1,5cm. Cắt ở nhánh tháp đã chọn, một mắt còn ngủ và có cuống lá, kích thước tương đương với gốc tháp. Xong đặt ngay vào gốc tháp đã cắt và buộc chặt bằng dây nilon hoặc băng keo. Sau 15 – 20 ngày có thể mở dây băng và cắt ngọn gốc tháp (giống cách tháp cửa sổ). nếu trường hợp băng buộc chừa mụt ngủ ló ra ngoài, ta có thể để đến khi mọc lú mầm mới mở dây buộc và cắt ngọn cũng được

d. Thời vụ tháp cây và cách săn sóc cây tháp:

Thời tiết thuận lợi đối với Quýt Hồng gốc chanh, cam hoặc bưởi là vào thời kỳ ta tưới vườn mạnh để cây ra đọt ra bông cho đến khi có mưa, tức là lúc cây chuyển nhựa tốt. Nên tránh những tháng 7, 8, 9 âm lịch mưa nhiều sẽ làm vết tháp dễ bị hư (thối da). Nghĩa là từ tháng 3 – 6 và từ 10 – 11 âm lịch. Ngoài những tháng trên cũng vẫn tháp được nhưng tỉ lệ sống thấp.

Khi những mụt thấp bắt đầu lú mầm ta nên chăm sóc cẩn thận như một cây non vì nếu mụt tháp bị gãy hay mất đi là uổng công. Trước tiên là theo dõi và bẻ bỏ những tược mọc ngoài mụt tháp, chỉ chừa một mụt tháp duy nhất mà thôi. Đồng thời ta cũng nên làm cỏ cho trống, cặm cây để bảo vệ và buộc gượng tược tháp khi mọc dài ra. Dùng phân và tưới nước thường xuyên để tược tháp mau lớn.

Tóm lại, gầy giống bằng phương pháp tháp ghép để lập vườn là việc làm rất tỉ mỉ mất nhiều thời gian và kỹ thuật tháp phải cao. Nhưng mặt khác thì ta có thể bảo đảm vườn quýt được lâu bền và sẽ tránh được những bệnh mà giống Quýt Hồng nguyên thủy gặp phải.

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

Nguồn gốc cây quýt hồng

Nguồn gốc cây quýt hồng

Lúc đầu tình cờ họ thấy trái quýt có màu sắc đẹp nên đem về trồng thử, rồi lần lần phổ biến nhân giống rộng ra. Còn về tên gọi thì có người kêu là Quýt Hồng, kẻ gọi là Quýt Tiêu.

Ở đồng bằng Sông Cửu Long từ trước năm 1975 vùng Lai Vung (Đồng Tháp) vườn cam quýt đặc sản cũng khá nhiều nhưng hầu hết là quýt Đường và cam Mật. Trong số này có một số ít chủ vườn chuyển sang trồng một số loại quýt trái rất to và màu hồng rất đẹp, bán rất đắt vào dịp lễ, tết mà dường như không ai tìm hiểu nó ở đâu và đặc tính nó như thế nào.

Đó là Quýt Hồng (Có người còn gọi là quýt Tiêu). Họ trồng theo kiểu cam quýt cũ. Lúc đầu có người cũng nản vì loại giống này chưa phổ biến và khó trồng. Nhưng tính về hiệu quả kinh tế thì nó có phần trội hơn quýt Đường và cam Mật nên một số chủ vườn chịu khó tìm hiểu, thử nghiệm và họ đã thành công. Kết quả bước đầu của một số ít vườn Quýt Hồng là một sự khích lệ, là nhân tố thúc đẩy mọi người làm vườn nhân rộng ra như ngày nay.

Để tìm hiểu chính xác về nguồn gốc của Quýt Hồng thì những người làm vườn kỳ cựu nhất cho biết: Lúc đầu tình cờ họ thấy trái quýt có màu sắc đẹp nên đem về trồng thử, rồi lần lần phổ biến nhân giống rộng ra. Còn về tên gọi thì có người kêu là Quýt Hồng, kẻ gọi là Quýt Tiêu. Họ gọi lẫn lộn mà không phân biệt được tên nào là đúng. Có người giải thích Quýt Tiêu và Quýt Hồng có vẻ thông thạo nhưng họ vẫn không biết rõ xuất xứ. Họ bảo rằng trái quýt hơi dẹp, to và lõm đít là Quýt Hồng, còn trái hơi tròn và nhỏ hơn là Quýt Tiêu, mặc dù hai thứ này đều có màu hồng hồng như nhau.

Còn tài liệu về cây ăn trái, nhất là cam quýt ở nước ta rất đa dạng (như vùng Vĩnh Long, Sadec, Cần Thơ) có đề cập đến quýt Đường, quýt Xiêm, quýt Ta và các giống quýt nổi tiếng khác như Quýt Quảng Đông (Cao Lộc Lạng Sơn), Quýt Lý Nhân (Hà Nam Ninh), Quýt Hương Cần (Huế), Quýt Đại Lộc (Quảng Nam), và một loại quýt vỏ vàng ở Bắc Sơn. Ngoài ra không thấy tài liệu nào đề cập đến Quýt Tiêu hay Quýt Hồng nổi tiếng ở Lai Vung, Đồng Tháp hiện nay.

Chúng ta không có dịp xác định một trong các loại quýt kể trên có giống Quýt Hồng hay không. Có điều làm cho chúng ta suy nghĩ là các loại quýt đó còn lưu trồng hay đã mất giống mà không được dư luận trong giới làm vườn trồng cây ăn trái đề cập đến. Nhưng đối với Quýt Hồng ở Lai Vung, Đồng Tháp, mấy năm gần đây đã được phổ biến rộng rãi, sản phẩm trái bán khắp trong nước và giống cây trồng cũng được nhân rộng ra nhiều nơi.

Giống quýt hồng

Giống quýt hồng

Muốn lập một vườn Quýt Hồng dù trồng bằng cây con, nhánh chiết hoặc tháp cũng đều phải chọn giống.

1. Chọn giống

Ngày xưa ông bà thường nói: “Mua heo chọn nái, cưới gái chọn giòng”. Về phương diện làm vườn cũng vậy, vì trồng cây mà không chọn giống thì uổng công. Từ ngày trồng cây đến ngày thu hoạch, ta tốn biết bao công sức và tiền bạc mà cây chậm phát triển, cho năng suất không cao thì phí công, hao của biết chừng nào.

Muốn lập một vườn Quýt Hồng dù trồng bằng cây con, nhánh chiết hoặc tháp cũng đều phải chọn giống.

2. Các loại cây giống

a. Trồng bằng cây con:

Trồng cây con là cách gây giống bằng phương pháp hữu tính, là quá trình tạo cây từ hạt. Phương pháp này mang đặc tính di truyền của cây mẹ. Nên ta chỉ lựa một cây quýt nào cho quả tốt rồi lấy hạt đem ương. Cách này có thể thực hiện được nhiều cây giống cùng một lúc nhưng phải có thời gian chờ cây con lớn. Thường thì đem ra vườn ngâm từ một năm trở lên mới có thể trồng được. Có hai cách trồng cây con: có hai cách trồng cây con: Bứng từ vườn ươm nguyên cây đem trồng hoặc chiết ngang tốc (xem phần chiết nhánh).

b. Trồng bằng nhánh chiết:

Gây giống bằng phương pháp chiết nhanh tương đối dễ, mau trồng và mau có trái hơn trồng bằng cây con, nhưng cũng hạn chế về mặt số lượng. Nhánh chiết cũng phải lựa giống cây tốt và nhánh tốt. Thường thì nhánh chiết từ cây mẹ nguyên là cây con có từ 3 năm tuổi trở lên và không quá 5 năm thì nó sẽ phát triển mạnh hơn, nhưng sẽ có trái trễ hơn nhánh chiết từ cây mẹ nguyên là nhánh chiết.

c. Trồng bằng cây tháp (ghép):

Quýt Hồng phát triển ở Lai Vung, Đồng Tháp khá lâu nhưng với cái bệnh chết bất thường đến nay cũng chưa ai chữa trị được để khỏi trồng cây khác. Nên người ta tìm một gốc cây có quan hệ họ hàng về mặt thực vật rễ phát triển tốt, bền, ít chết bậy như chanh, cam, bưởi v.v… để tháp (ghép) Quýt Hồng vào.

Gốc tháp phải đạt yêu cầu sau:

- Có sức sinh trưởng tương đương với cành tháp.

- Có bộ rễ sinh trưởng mạnh, đâm chồi nhiều và sinh nhiều rễ phụ.

- Dễ thích ứng và chịu đựng tốt với điều kiện thời tiết như mưa, nắng, ngập nước v.v…

Với điều kiện trên ta nhận thấy dùng nhanh để làm gốc tháp là thích hợp nhất.

Trồng Quýt bằng phương pháp tháp (ghép) thì việc gầy giống còn khó khăn và chậm. Cần thời gian chuẩn bị cây trồng và kỹ thuật tháp (ghép) cao mới đủ số lượng trồng nhiều, nhưng rất đảm bảo về mặt phát triển và lợi được nhiều về phương diện khác như: không cần phải làm bờ quá cao tốn kém, không sợ úng thủy hau nước ngập.

d. Khu ươm cây và giâm cây giống:

Muốn cây mới đem trồng vào vườn ít hao, dù cây con hay nhánh chết, ta nên giâm ở vườn ươm một thời gian cho cây tươi tỉnh. Khi thời tiết thuận lợi đem ra vườn trồng, cây sẽ không bị héo và mau phát triển.

Trồng một vườn cây ăn trái dù lớn hay nhỏ cũng nên có một khi dành riêng để giâm cây con trước khi đem trồng.

Có hai loại cây giâm:

Giâm cây con:


Cây con ươm từ hạt khi lên cao từ 2 tấc trở lên đem giâm vào khu giâm. Sau 1 năm tuổi ta có thể bứng nguyên cây hoặc chiết ngang gốc để trồng (xem cách giâm cây con).

Giâm nhánh chiết hoặc cây con chiết ngang:


- Giâm tạm (rấm)

Khi cắt một đầu chiết đã ra rễ trồng được ta nên đem rấm (giâm tạm) bằng cách để các bầu sát vào nhau nơi mát hoặc có mái che và đắp thêm vào rễ một cục đất bùn. Sau 15 ngày rễ sẽ mọc dài ra thêm thật nhiều, khi đó đem đi trồng nhánh sẽ không mất sức.

- Giảm thực thụ (thời gian từ 1 năm)

Nếu trong hoàn cảnh chuẩn bị vườn chưa xong mà muốn cây mau thu hoạch ta nên chuẩn bị cây giống và giâm trước. Nhờ cách này ta có thể rút ngắn thời gian thu hoạch tùy giâm lâu hay mau nhưng không quá 2 năm, vì cây lớn quá sẽ khó bứng. Cây giâm thực thụ phải thưa để cây phát triển. Khoảng cách giữa hai cây có thể từ 5 tấc đến 1 thước. Đây cũng là cách dự phòng để thay vào những cây chết trong vườn mỗi khi cần.

Kỹ thuật trồng cây Quýt Hồng

Kỹ thuật trồng cây Quýt Hồng

Hoa thông thường có mùi thơm rất mạnh. Quả là loại quả có múi, một dạng quả mọng đặc biệt, hình cầu hay cầu thuôn dài, chiều dài 4-30 cm và đường kính 4-20 cm

Các loài thực vật Cam, chanh, quýt, bưởi phổ biến thuộc chi Cam chanh (Citrus) của họ Cửu lý hương (Rutaceae). Chúng đều là những loài cây nguyên sản vùng nhiệt đới, phổ biến ở các nước Đông Nam Á.

Các loại cây trong chi này là các cây bụi, cây gỗ nhỏ, cao 5-15 m tùy loại, với thân cây có gai và các lá thường xanh mọc so le có mép nhẵn. Hoa mọc đơn hoặc tự ngù nhỏ, mỗi hoa có đường kính 2-4 cm với 5 (ít khi 4) cánh hoa màu trắng và rất nhiều nhị hoa. Hoa thông thường có mùi thơm rất mạnh. Quả là loại quả có múi, một dạng quả mọng đặc biệt, hình cầu hay cầu thuôn dài, chiều dài 4-30 cm và đường kính 4-20 cm, bên trong quả khi bóc lớp vỏ và cùi sẽ thấy lớp vỏ mỏng, dai, màu trắng bao quanh các múi bên trong chứa nhiều tép mọng nước.

Các loại cây trong chi này ưa các điều kiện môi trường nhiều nắng, ẩm ướt với đất tốt và lượng mưa hay lượng nước tưới đủ lớn. Mặc dù có tán lá rộng, nhưng chúng là cây thường xanh và không rụng lá theo mùa, ngoại trừ khi bị ép. Chúng nở hoa vào mùa xuân và tạo quả chỉ một thời gian ngắn sau đó. Quả bắt đầu chín vào mùa thu hay đầu mùa đông, phụ thuộc vào các giống được trồng, cũng như gia tăng độ ngọt sau đó. Một vài giống quýt chín vào mùa đông. Một vài giống, chẳng hạn bưởi chùm, cần tới 18 tháng để quả có thể chín.

Quả của các loài cam quýt thường được ăn tươi. Nói chung vỏ của chúng dễ bóc bằng tay và dễ dàng tách các múi. Ở nhiều nơi, nước cam và bưởi là những đồ uống phổ biến khi ăn sáng. Những loại quả chua hơn như chanh nói chung ít được ăn trực tiếp. Nước chanh thường phải thêm đường vào để bớt chua trước khi uống. Chanh cũng được dùng làm gia vị trong nhiều món ăn. Người ta cũng làm mứt từ cam hay chanh. Quả Cam đường dùng để ăn có nhiều tác dụng; lại được dùng làm thuốc giải nhiệt, trị sốt, điều trị chứng xuất tiết và giúp ăn ngon miệng. Ở Ấn Độ, dịch quả cũng được dùng trong bệnh đau về mật và ỉa chảy ra mật. Vỏ quả cam có thể dùng thay vỏ quýt nhưng tác dụng kém hơn, làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đau bụng, đầy bụng, ợ chua, đi ngoài. Ta còn dùng vỏ cam chữa bệnh sau khi đẻ bị phù. vỏ tươi dùng xát vào mặt làm thuốc điều trị mụn trứng cá. Lá cam dùng chữa tai chảy nước vàng hay máu mủ. Hoa Cam thường dùng cất tinh dầu và nước cất hoa cam dùng pha chế thuốc. Chỉ ăn toàn cam trong ba ngày liền có tác dụng như một liều thuốc tẩy độc rất tốt. Uống nước vỏ cam nấu chín có tác dụng kính thích nội tiết nước mật, làm tăng nhu động ruột, chống bệnh táo bón.

I.KỸ THUẬT TRỒNG:

1. Thời vụ trồng:

Trồng cam quýt vào cuối mùa mưa

2. Chuẩn bị đất trồng:

Trồng cam, quýt trên đất phù sa ven sông, đất bồi tụ, đất rừng mới khai phá, đất thung lũng, đất phù sa cổ có tầng dày từ 80 - 100 cm, có hàm lượng mùn cao, cao ráo, thoát nước, mực nước ngầm dưới 1m.

Vùng đất trồng cam quít phải thoáng gió, cao ráo , thoát nước. Độ pH thích hợp trong đất từ 5,5- 6.

Trước khi trồng một tháng đất phải được dọn sạch cỏ, cày bừa kỹ, chia lô, hàng, đào hố bón phân lót.

3. Đào hố trồng cây:


Mật độ trồng đối với các cây ghép trên gốc ghép gieo hạt từ 300 - 500 cây/1 ha - khoảng cách cây và hàng từ 4 x 5m (cam, quýt) hoặc 6 x 7 m (bưởi).

Các cây cam, quýt, bưởi ghép trên gốc ghép nhân vô tính (chiết, ghép), có thể trồng với mật độ dày hơn: 800 - 1200 cây/ha, với các khoảng cách 4 x 2m; 3 x 3 m; 3 x 4m.

4. Trồng cây:

Kích thước hố đào 60 x 60 x 60 cm. ở chỗ cao cần đào hố sâu hơn, rộng hơn: 70 x 70 x 70 cm. Lớp đất đào lên được trộn đều với 30 kg phân chuồng hoai mục loại tốt; 0,2-0,5 kg phân lân (Termophotphat); 0,1-0,2 kg sunfat kali (K2SO4). Lấp hố trước khi trồng 10 - 15 ngày.

Khi trồng, đào lại ở giữa hố đã lấp 1 hố nhỏ sâu và rộng hơn bầu cây 1 chút, đặt cây thẳng và lấp đất cao hơn mặt bầu 3 - 5 cm, nén đất chặt và tưới nước. Sau đó cứ 1 ngày lại tưới đẫm nước 1 lần sao cho đất thường xuyên có độ ẩm 70% độ ẩm đất bão hòa trong 10 ngày liền. Sau đó tùy độ ẩm đất mà quyết định 3-5 ngày tưới một lần. Trong mùa khô hạn cần phủ gốc cam quýt bằng rơm rác, cỏ khô, lá xanh 1 lớp dày 5 - 10 cm để giữ ẩm và chống không cho cỏ dại mọc. Phủ cỏ và đất cách gốc 10 cm để phòng bệnh thối cổ rễ.

5. Xen canh:


Có thể xen canh các loài cây nông nghiệp ngắn ngày ở giữa khoảng các cây trong vườn quýt để chống cỏ dại.

II.CHĂM SÓC, BẢO VỆ:

1. Bón phân:

Cam quít cần được bón nhiều phân, cân đối các nguyên tố dinh dưỡng, đủ vi lượng cây mới sinh trưởng khỏe, sung sức, chống chịu tốt với sâu và bệnh hại, bền cây và cho thu hoạch cao.

1.1.Căn cứ tuổi cây để bón phân:

-Cây từ 1 - 4 tuổi: 1 năm bón 1 lần phân chuồng 30 kg cùng với 0,1- 0,2 kg phân lân nung chảy vào cuối mùa sinh trưởng (từ tháng 11 -1) Ngoài ra bón 200g urê và 100 g sunfat kali vào các tháng 1-2 (30% phân đạm) tháng 4-5 (40% đạm + phân kali) và tháng 8-9 (30% đạm còn lại)

-Cây từ 5 - 8 tuổi liều lượng bón như sau: Phân chuồng tốt 30-50 kg/năm. Đạm urê 1 - 2 kg (có thể thay 1 /2 bằng đạm sunfat để tránh tình trạng thiếu lưu huỳnh). Phân lân dạng nung chảy 3,5 kg. Phân kali dạng sunfat 1 - 1,2 kg. Phân chuồng và phân lân bón 1 lần vào sau vụ thu hoạch. Bón 60% phân đạm và 40% phân kali vào tháng 1-2; 60% phân kali và 40% phân đạm còn lại vào tháng 5-6. Cũng có thể chia đều phân đạm để bón làm 3 lần: Tháng 1-2: 40%; tháng 5-6: 30 %; tháng 8-9: 30 %.

(Chú ý: Các loại phân rắc cách gốc từ 30-50cm, phủ một lớp mỏng đất bột, rơm rác, tưới nước. Tránh phủ đất quá dày, sát gốc sẽ gây bệnh thối gốc cam quít).

1.2.Căn cứ tuổi cây và năng suất cam quít để bón phân:

-Cây từ 1-3 tuổi: Phân chuồng 25 - 30 kg/cây; phân lân nung chảy hoặc photphat nghiền 200-500g/cây; phân urê: 150 - 200 g/cây.

-Cây 4-5 tuổi: Phân chuồng 30 kg/cây; đạm urê 300g; lân nung chảy 500 g/cây; sunfat kali 300 g; vôi bột 500 g - 600 g/cây. Phân lân và phân chuồng bón 1 lần vào cuối mùa sinh trưởng cùng với vôi bột. Phân đạm và kali chia làm 3 lần: các tháng 1-2 (30% phân đạm) tháng 4-5 (40% đạm + phân kali) và tháng 8-9 (30% đạm còn lại).

-Cây từ 6-8 tuổi trở lên: có thể căn cứ vào sản lượng thu hoạch hàng năm để định lượng phân bón. Nếu thu hoạch 15 tấn quả/1 ha bón cho 1 cây: 30 kg phân chuồng/cây, đạm urê 400g/cây, phân lân nung chảy 1000g/cây; vôi bột 1000g/cây; sunfat kali 500g/cây. Đó là lượng phân bón cho 1 cây theo sản lượng 15 tấn quả/ha, mật độ trồng 600 cây. Nếu năng suất 30 tấn/ha và mật độ là 1200 cây/ha, thì lượng phân bón cho 1 cây không thay đổi. Nếu năng suất vẫn là 15 tấn/ha thì lượng phân bón cho 1 cây rút xuống còn 1/2. Trong trường hợp năng suất tăng gấp đôi: 60 tấn/ha thì lượng phân bón cho 1 cây cũng được tăng lên tương ứng..

2. Tưới nước:

Mùa khô độ ẩm trong đất giảm xuống tới 40% độ ẩm đất bão hòa, thời kỳ hạn nhẹ cũng tới 40 - 50%. Khi đó cần tưới nước cho cây để đạt tới 100% độ ẩm đất bão hòa ít nhất ở phần xung quanh gốc theo chu kỳ 3 - 5 ngày 1 lần tưới thấm hoặc tưới phun mưa, có tác dụng nâng cao năng suất rõ rệt.

3. Tỉa cành tạo tán:

Tạo tán đối với cây trồng bằng cách chiết phải tiến hành từ cuối năm thứ nhất sau trồng, cây trồng bằng ghép phải tiến hành ngay trong vườn ươm.

-Tạo cành cấp 1: Từ mặt đất phân cành cấp 1 từ 30-60 cm, cắt bỏ các cành dưới. Nếu cây ghép, từ mối ghép đến phân cànhtừ 25-30 cm, mỗi cây nên để 3-4 cành cấp 1, phân đều các hướng, góc cành cấp 1 so với thân khoảng 45-60 độ.

-Tạo cành cấp 2: Mỗi cành cấp 1 để 3 cành cấp 2 đầu tiên từ 40-60 cm, góc tạo cành cấp 1 và cấp 2 là 60-80 độ.

-Tỉa thường xuyên: Tỉa các cành già cỗi, sâu bệnh, cành tăm, cành vượt, cành khô, tạo điều kiện cho tán cây thông thoáng.

-Đốn phục hồi: Đối với cây già cỗi, có cành sâu bệnh và phát triển không đều có thể phục hồi bằng cách cắt bớt một số cành lớn, già cỗi, sâu bệnh, chỉ để lại các cành khoẻ, xanh tốt, để lại thân chính và cành cấp 1 dài 30-50 cm, khi cành mọc chồi mới, tỉa bớt tạo tán mới thoáng và ít cành, kết hợp việc đốn tỉa, bón phân, chăm sóc phục hồi cây có thể kéo dài một số năm cho thu hoạch.

(Chú ý: Tỉa hoa dị hình, hoa quả non ra muộn, ở những vị trí không thích hợp cho việc hình thành quả).