Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017

Cách trồng cây đu đủ

Cách trồng cây đu đủ

Đây là một cây trái rất quen thuộc được trồng ở khắp mọi nơi, từ một vài cây quanh nhà, bờ đê đến xen canh cây lâu năm, hoặc có nơi trồng thành vườn chuyên.


Cây đu đủ tên La -tinh là Carica papaya L., nguồn gốc Trung Mỹ đã được nhà báo Oviedo người Tây Ban Nha mô tả năm 1526 ở bờ biển các nước Panama và Colombia. Rất có thể du nhập vào Việt Nam qua ngả Philiippines.

1. Đặc tính thực vật:


Đu đủ là một cây song tử diệp, nhưng thân không cứng và cũng không đâm nhánh, trừ phi đã bắt đầu già cỗi. Cây cao chừng 3-7m và ngọn có nhiều lá, cọng dài 60-70cm, mềm và rỗng ruột, gồm 7 phiến, rộng đến cả thước rưỡi. Thân đầy sẹo lá.

Đu đủ thường là cây đồng chu, nhưng đu đủ có thể xếp thành 3 loại trên phương diện giới tính: cây đực, cây lưỡng tính và cây cái. Vài cây đu đủ cũng có thể trổ cả ba loại hoa nói trên. Ngoài ra cũng có cây ra hoa không hẳn hoàn toàn đực, cái hay lưỡng tính mà lại pha lẫn nhiều ít đặc tính của ba loại hoa. Khuynh hướng thay đổi giới tính phần lớn do thời tiết gây ra  như khô hạn và thay đổi nhiệt độ. Nhiệt độ càng cao thì khuynh hướng sản xuất hoa đực càng lớn. Hoa đực ở cây đực màu hơi xanh lục, mọc từ nách lá trên những chùm dài, nhiều nhánh. Hoa cái ở cây cái lớn hơn, cuống rất ngắn, mọc rải rác hay hai ba hoa ở phần trên thân, sản xuất trái tròn, bầu dục hay hình trái lê, vỏ xanh hay vàng khi trái chín. Cây đực  không cho trái. Trái của hoa lưỡng tính được ưa chuộng hơn ở thị trường. Vì vậy, cần lựa chọn cây cho trái với loại hoa cái hay hoa lưỡng tính thích hợp. Nhà vườn không thể nào lựa chọn được, nếu chỉ gieo hột lấy từ trái thụ phấn tự do. Trái lại, nhà vườn có thể lựa chọn một cách khá chính xác cây nào là cái, cây nào là lưỡng tính bằng cách bao giấy hoa cái hay hoa lưỡng tính chưa nở, rồi tự lựa phấn để rắc tay (thụ phấn chéo) vào vòi noãn khi hoa cái hay hoa lưỡng tính nở. Những nghiên cứu về thụ phấn trên đu đủ cho biết rằng:

a- Thụ phấn hoa cái bằng phấn hoa đực thì một nửa số cây con sẽ là cây đực, một nửa sẽ là cây cái.

b- Dùng phấn hoa lưỡng tính để thụ phấn hoa cái thì một nửa số cây sẽ là cây cái, một nửa sẽ là cây lưỡng tính.

c- Hoa lưỡng tính tự thụ tinh hay thụ phấn chéo với phấn hoa lưỡng tính khác thì cho tỉ lệ một cây cái hai cây lưỡng tính.

d- Dùng phấn cây đực để thụ phấn hoa lưỡng tính thì một phần ba số cây sẽ là cây cái, một phần ba sẽ là cây đực, một phần ba sẽ là cây lưỡng tính.

Chiếu theo nghiên cứu này, phương cách b) và c) sẽ cho những cây con ra trái nhiều nhất. Nếu không làm thụ phấn bằng tay, nhà vườn cũng có thể để lại vài cây đực trong vườn thì đủ bảo đảm các hoa khác đều thụ phấn và ra trái.

2. Yêu cầu về khí hậu đất đai


Cây đu đủ rất ưa nắng và trời ấm áp. Nếu khi trái chín mà nhiệt độ khí trời lạnh, không đủ nóng thì trái sẽ lạt nhách. Đu đủ cũng cần nhiều mưa và mưa phân phối đồng đều. Nếu không thì cần tưới nước, đu đủ mới cho nhiều trái. Thiếu nước mùa nắng, hoa sẽ ít đậu trái và trái non sẽ rụng nhiều. Tuy nhiên, nếu quá nhiều nước, nhất là nước đọng thì cây mọc hay phục hồi chậm, yếu. Lá, rễ bị hư hại nhiều. Cây đu đủ cũng không chịu đựng được gió to.

Đu đủ có hệ thống rễ đuôi chuột và như vậy đòi hỏi đất nhẹ, nhiều mùn, thoáng khí. Đất có độ pH từ 6 đến 6,5 là thích hợp nhất. Tuy đu đủ được trồng bất cứ mọi nơi, nhưng muốn năng suất cao thì phải bón phân. Mỗi năm bón cho mỗi cây độ chừng 50kg phân rác mục, cây sẽ cho nhiều trái. Bón phân đạm cho đu đủ, lá sẽ xanh tươi. Bón phân lân, đu đủ sẽ mọc mạnh và kháng bệnh tật hơn. Bón phân kali, trái đu đủ sẽ giòn và ngọt hơn. Ở đất nghèo nên bón cho mỗi cây con, khi mới đặt vào lỗ, hay sau đó ít lâu khoảng 200 – 250g phân hỗn hợp 10-10-5 (trong đó 30% đạm nguồn gốc hữu cơ). Số lượng này bón hai tuần một lần và tăng thêm dần dần đến 500-600g, khi cây được 7-8 tháng. Sau đó chỉ bón hàng tháng là đủ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng cho năng suất cao, trừ phi mưa to quá làm trôi phân đi thì phải bón lại phân ngay.

3. Nhân giống và trồng trọt

Tháp hay giâm cành đu đủ đều được cả, nhưng tốn công vô ích. Trái lại trồng bằng hột thì dễ dàng tiện lợi. Trái đu đủ đã nhiều hột, mà hột lại tồn trữ dễ dàng. Hột vẫn còn nẩy mầm sau ba năm nếu đựơc tồn trữ nơi khô ráo và mát mẻ. Gieo hột càng tươi càng tốt và nên chọn hột ở trái chín.Hột phải rửa sạch chất nhờn bao quanh trước khi gieo trên liếp ươm, ngoài nắng, thành hàng song song cách nhau 20cm. Hột nảy mầm đều đặn sau 10-15 ngày. Cũng có thể gieo hai ba hột trong bầu nhỏ để trừ hao khi hột ít nảy mầm, sâu bệnh phá hại hay để tỉa bớt cây đực.

Cây con được một tháng ở liếp ươm thì đem cấy ở vườn ươm ở khoảng cách 0,50 x 0,50m hay tốt hơn nữa cấy cây trong bao nhựa dẻo. Khi cây con cao 50cm thì đem trồng. Hố trồng có kích thước 0,60 x 0,60 x 0,60m là vừa.

Cây đu đủ lấy trái trồng ở khoảng cách 3,50 x 3,50m. Nếu trồng để lấy nhựa, lấy mủ thì ở khoảng cách gần hơn 2 x 2m hay 2 x 3m. Trồng hàng đôi 2 x 2m và cứ hai hàng lại chừa một khoảng cách là 4m thì có thể trồng xen kẽ cây khác ở giữa các hàng đu đủ.

Khoảng 5 – 6 tháng sau khi đặt vào hố, cây đu đủ bắt đầu trổ hoa. Chỉ nên giữ lại các cây cái hay cây lưỡng tính mọc mạnh, tỉa bỏ các cây khác. 9 – 10 tháng sau khi trồng là đu đủ đã có trái và cây ra trái suốt năm. Đu đủ có thể sống 20 năm. Nhưng mức sản xuất chỉ đáng kể trong 10 năm đầu. Mức năng suất khá là chừng 15 tấn/ha/năm thì có thể thương mại được. Trồng để lấy mủ thì chỉ khai thác được trong vòng ba bốn năm mà thôi.

4. Các giống đu đủ

- Ở miền Nam, trước tiên nên kể ra giống đu đủ ruột đỏ, dày, giòn, thơm ngon, nhưng ít ngọt, trồng nhiều ở đất giồng đồng bằng sông Cửu Long, giáp biên giới Campuchia. Đu đủ ruột đỏ gồm nhiều hoa lưỡng tính đậu trái và như vậy cây nào cũng có trái. Trái hình bầu dục, đầu nhọn, màu xanh, hơi vàng khi trái chín. Một giống đu đủ khác là đu đủ ruột vàng cũng tìm thấy ở đất giồng. Đu đủ này có nhiều cây đực. Trái nhiều , tròn nhưng ngắn  và có màu vàng khi trái chín. Hột cũng nhiều hơn, ruột mỏng và mềm nhũn, ăn hơi hôi.

- Một giống nữa ở miền Nam có ruột vàng hay vàng cam, trái hình bầu dục và ngọt nhưng ít thơm hơn đu đủ đỏ.

- Giống Solo nguồn gốc xứ Barbade ở Nam Mỹ nhưng được tuyển chọn ở Hawaii lâu ngày là giống duy nhất được thương mại hóa ở thị trường quốc tế. Các trái Solo đều phát sinh từ hoa lưỡng tính tự thụ phấn lấy, cỡ trái đều đặn, to vừa phải, hình quả lê tây và mùi vị được ưa chuộng. Đu đủ Solo đã được phổ biến nhiều ở Phi Châu. Trước đây có đem trồng ở Việt Nam. Ở Việt Nam, Solo có ruột màu cam. Hiện ở Hawaii còn có giống Solo cải thiện gọi là giống “Solo trời mọc” (Sunrise Solo), có ruột màu hồng lợt, nên du nhập trồng thử ở Việt Nam.

Vì có một di sản gen phức tạp, nên khó mà giữ cho đồng nhất một giống đu đủ có đầy đủ các đặc tính của giống nguyên sinh. Nếu để đu đủ thụ phấn tự do sẽ không lựa chọn được các cây đu đủ có loại hoa và loại trái nguyên dạng.

Áp dụng phương cách kiểm soát thụ phấn bằng tay như đã trình bày thì có thể duy trì lâu năm giống đu đủ gần đúng nguồn gốc được.

5. Công dụng khác của đu đủ

Trái đu đủ non xắt nhỏ đã thấy bán nhiều như giá đậu nành hay giá đậu xanh ở các siêu thị Trung Hoa hay ViệtNam, ở các tiểu bang Mỹ có nhiều người Á Đông. Rễ đu đủ cũng ăn được như cọng rau đắng. Sắc hoa đu đủ uống làm thuốc hạ nhiệt và bớt đau ngực. Phơi khô hoa đu đủ và tán ra bột có thể pha thành thuốc trị sán lãi. Lá chứa chất alcaloid gọi là carpaine thay thế được chất digitalin trị bệnh tim. Cuốn thịt quá cứng với lá đu đủ làm thịt mềm đi nhiều. Chích lá hay trái thì mủ chảy ra và đông đặc nhanh chóng. Mủ này chứa chất enzym mạnh là papain có đặc tính giống như pepsin làm tan các chất “thịt” albuminoid. Ở Sri Lanka, người ta khai thác papain bằng cách rạch dọc trái, ban sáng tinh sương với mảnh chai hay thẻ tre nhọn. Tránh cho papain đụng nhằm tay hay kim khí, ngoại trừ nhôm (aluminium), mỗi ngày mỗi trái cho 10g mủ chứa 12 – 15% chất khô. Một hecta đu đủ sản xuất khá cho chừng 200 kg papain mỗi năm. Cần 2 kg mủ tươi để cho 0,5 kg papain khô. Mủ tươi phải đem sấy khô ngay hoặc thêm một chút formol vào mủ tươi thì không bị thối hay bị phân hoá.

Đu đủ núi, trái cây vùng Nam Mỹ

Đu đủ núi, trái cây vùng Nam Mỹ

Trái Đu đủ núi không có hạt, nhân giống bằng cách giâm cành. Cây thường nhảy con ra quanh gốc, tách những nhánh con này ra, cắt thành từng đoạn dài 10 -20cm cắm thẳng những đoạn này xuống đất rồi tưới ẩm


Đu đủ núi (Babaco), còn gọi là trái Champagne ( Champagne fruit) vì mùi vị của nó giống rượu Champagne- chua chua, ngọt ngọt và thơm thơm! Cây có tên khoa học là Carica pentagona- vì trái có 5 cạnh. Đây là loài đu đủ được lai tạo giữa 2 loài đu đủ núi mọc hoang dại trên các vùng đồi núi cao của các xứ Peru, Colombia và Chile.

Đu đủ núi thích hợp nơi có độ cao từ 1.500m -> 3.000m với khí hậu bán nhiệt đới như ở Đà Lạt, các tỉnh phía Bắc và các vùng cao ở Việt Nam như Sapa.Hiện nay ngoài Nam Mỹ ra, Babaco còn được trồng rất nhiều ở California, Italy, miền Nam nước Anh, vùng đảo Channal Islands giữa nước Anh và Pháp, Úc, nhiều nhất là New Zealand.

Đu đủ núi cao đến 10m, nhìn giống cây Đu đủ, nhưng lá nhỏ hơn và có nhiều cây con nhảy ra quanh gốc như cây chuối. Babaco thích khí hậu bán nhiệt đới, nóng đến 36oC, thích nắng ấm.Cây có thể chịu lạnh đến 2oC, lá sẽ rụng bớt đi, nhưng sẽ hồi phục nhanh chóng khi trời ấm áp trở lại.

Cây Babaco sống đến 8 năm, chỉ ra toàn hoa cái, mỗi năm ra từ 40 đến 100 trái.  Tuy cây mang rất nhiều quả, nhưng cuống trái rất dài nên trái vẫn có đủ chỗ để phát triển chứ không bị chen lấn như cây đu đủ thường. Trái chín màu vàng tươi, dài 30cm, ngang 12cm, nặng từ 1-2kg. Trái  không có hạt và có thể ăn luôn cả vỏ. Trái chín có mùi thơm rất đặc biệt, như là mùi Dâu tây Đà Lạt quyện với mùi trái thơm, trái Kiwi và trái Đu đủ. Thịt bên trong màu trắng ăn hơi cứng chớ không mềm như đu đủ thường, rất nhiều nước, vị chua và ngọt ngọt như trái me chín.

Cây thích mọc ở đất cát, đất thịt thoát nước, đất nhiều dưỡng chất vì rễ đu đủ núi cần nhiều chất bổ để nuôi hằng đống trái trên cây. Đu đủ núi trồng trên đất úng nước rễ hay bị thúi. Tuy cây thích đất thoát nước, nhưng nên rải một lớp  rơm khô quanh gốc cây để giữ ẩm vì cây không thích đất khô.

Cách nhân giống đu đủ núi

Trái Đu đủ núi không có hạt, nhân giống bằng cách giâm cành. Cây thường nhảy con ra quanh gốc, tách những nhánh con này ra, cắt thành từng đoạn dài 10 -20cm ( đoạn có lá xanh ở trên hoặc đoạn không có lá đều dùng được). Cắm thẳng những đoạn này xuống đất đến 2/3 chiều cao, tưới nước. Ta có thể cắm vào đất cát, Trước khi giâm nên để những đoạn giâm này trong mát khoảng 1 tuần cho nhựa khô đi, sau đó mới cắm xuống đất để đoạn giâm không bị thúi , có thể dùng thuốc kích thích để đoạn giâm mau ra rễ.

Trái đu đủ núi có chứa nhiều sinh tố C. Trái đu đủ núi dùng để ăn tươi, cắt lát mỏng hoặc từng khúc vuông, rắc thêm đường và ăn lạnh, hoặc xay sinh tố. Thịt trái đu đủ núi chín hơi cứng và dai dai, có thể dùng để nấu ăn, cắt lát mỏng trộn gỏi, sấy khô hoặc làm mứt.

Trồng đu đủ áp dụng quy trình phun chế phẩm EM

Trồng đu đủ áp dụng quy trình phun chế phẩm EM

Sở KH-CN Vĩnh Phúc và Khoa Nông học, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội vừa nghiên cứu thành công và khuyến cáo nông dân trồng đu đủ áp dụng quy trình phun chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EM nhằm làm tăng năng suất, chất lượng quả.


Phun chế phẩm EM cho cây đu đủ định kỳ 2 tuần/lần ngay sau trồng 1 tháng cho tới trước khi thu hoạch quả 1 tháng sẽ làm tăng năng suất, chất lượng quả, đặc biệt làm tăng thêm mức lãi

Thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Liên, Chủ nhiệm đề tài cho biết, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của việc phun tới sinh trưởng, năng suất và chất lượng đu đủ” được thực hiện trên vườn thực nghiệm của Cty TNHH Phát triển nông nghiệp CNC Sơn Thái tại xã Vân Hòa, Ba Vì, Hà Nội (2009-2010) và Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN Vĩnh Phúc (2011-2012) trên 3 giống đu đủ: Nông Hữu1, Hồng Phi 768 (nhập nội từ Đài Loan) và giống Lòng Vàng của địa phương.

Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (Effective Microorganis) EM thứ cấp được pha loãng với các nồng độ khác nhau (1/500, 1/1.000 và 1/1.500), phun lên cây định kỳ 2 tuần/lần, bắt đầu từ giai đoạn sau trồng 1 tháng, khi cây đã ổn định.

Kết quả theo dõi tại các điểm thí nghiệm cho thấy:


- Về sinh trưởng

Các cây được xử lý EM làm tăng khả năng quang hợp, cây sinh trưởng nhanh hơn, phát triển khỏe hơn, góp phần làm tăng năng suất cao hơn so với đối chứng không phun EM.

- Về năng suất thu hoạch


Ở nồng độ phun 1/1.000, 2 giống Nông Hữu 1 và Hồng Phi 768 đều tăng số quả trên cây, tăng khối lượng quả bình quân và năng suất thực thu cao nhất so với đối chứng không phun (giống Nông Hữu 1 thực thu 73/60,84 tấn/ha, tăng 12,16 tấn/ha; giống Hồng Phi 768 thực thu 67,62/59,38 tấn/ha, tăng 3,34 tấn; giống Lòng Vàng thực thu 64,87/49,22 tấn/ha, tăng 15,65 tấn ).

- Về chất lượng quả


Lượng đường tổng số và hàm lượng chất khô trên quả của 3 giống đu đủ nghiên cứu ở tất cả các nồng độ EM đều cho hàm lượng cao hơn so với đối chứng không phun, màu trái cũng đẹp hơn, ăn ngọt, ngon hơn đối chứng.

- Về hiệu quả kinh tế


Xử lý EM trên cả 3 giống đu đủ thí nghiệm làm lãi ròng tăng thêm. Mức lãi ròng tăng thêm cao nhất ở nồng độ 1/500 đối với giống Lòng Vàng (58,46 triệu đồng/ha), tiếp đến là giống Nông Hữu (44,82 triệu đồng/ha) và cuối cùng là giống Hồng Phi 768 (29,14 triệu đồng/ha) ở nồng độ phun 1/1.000.

- Về khả năng chống chịu bệnh

 Ở tất cả các nồng độ xử lý EM trên cả 3 giống thí nghiệm đều có tác dụng làm giảm tỷ lệ nhiễm các bệnh thán thư, phấn trắng, khảm lá virus và đốm hình nhẫn.

Theo khuyến cáo của nhóm đề tài, để đạt được hiệu quả cao khi áp dụng quy trình xử lý chế phẩm EM trong SX đu đủ ở quy mô lớn, ngoài việc tuân thủ quy trình đã ban hành, bà con cần chú ý thêm một số điểm sau đây

- Trồng đúng khoảng cách

Cây cách cây 2,5 m, hàng cách hàng 2,5 m để có mật độ 1.333 cây/ha.

- Thời gian xử lý EM thích hợp

Phun định kỳ 2 tuần/lần, ngay sau trồng 1 tháng, khi cây đã ổn định cho đến trước khi thu hoạch 1 tháng, tập trung vào các thời kỳ cây đang sinh trưởng, ra hoa, đậu quả và nuôi quả lớn. Ngừng phun chế phẩm EM trước khi thu quả 1 tháng.

- Với các giống đu đủ thuần bản địa, nên phun chế phẩm EM với nồng độ pha 1/500, với các giống đu đủ lai F1 nhập nội nên pha nồng độ 1/1.000.

- Phun chế phẩm EM vào lúc sáng sớm đã khô sương hoặc chiều mát, tránh lúc nắng gắt, trời mưa.

Công dụng khác của cây đu đủ

Công dụng khác của cây đu đủ

Hoa đu đủ đực là một vị thuốc được dùng phổ biến để chữa ho. Khi dùng, hái hoa mới nở ngay tại nay, thường dùng tươi.


I. Tác dụng tuyệt vời của cây đu đủ


1. Thành phần dinh dưỡng:

Đặc biệt trong đu đủ lượng beta caroten nhiều hơn trong các rau quả khác. Beta caroten là một tiền chất của vitamin A, vào cơ thể sẽ được chuyển hoá thành vitamin A. Đây là một loại vi chất dinh dưỡng có vai trò là chống oxy hoá mạnh giúp chống lại một số căn bệnh ung thư, chống khô mắt, khô da và có tác dụng nhuận tràng. Trong 100g đu đủ chín chứa 2.100 mcg beta caroten.

Tuy nhiên nhu cầu beta caroten cũng cần vừa phải, nếu ăn quá nhiều, liên tục sẽ dẫn đến thừa và gây vàng da. Hiện tượng vàng da này sẽ mất nếu giảm lượng beta caroten ăn vào.

Ngoài ra trong đu đủ còn chứa nhiều vitamin. Đu đủ có thể cung cấp cho cơ thể các loại vitamin thiết yếu như vitamin A và vitamin C, trong 100g đu đủ có 74-80 mg vitamin C. Ở Ấn Độ người ta đã chiết xuất vitamin A từ quả đu đủ để sản xuất ra thuốc chống lại bệnh quáng gà ở trẻ em. Đu đủ còn có các vitamin B1, B2, các acid gây men và khoáng chất như kali, canxi, magiê, sắt và kẽm. Ăn đu đủ thường xuyên có tác dụng bổ máu, giúp hồi phục gan ở người bị sốt rét. Do có nhiều sinh tố C và caroten nên đu đủ có tác dụng chống oxy hoá, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

2. Dưỡng sinh với đu đủ:

Đu đủ chín có quanh năm và mùa nào dùng cũng tốt cho sức khoẻ. Vào mùa hè, ăn đu đủ có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, giải nhiệt, giải độc. Vào thu đông, đu đủ giúp nhuận táo, ôn bổ tỳ vị, dưỡng can, nhuận phế, chỉ khái, hoá đàm.

Đu đủ có tác dụng tốt cho những người chóng già, da mai mái, thể trạng không sung mãn, có các bệnh mạn tính. Dùng đu đủ chín 200g, chuối xiêm 300g, 3 thứ trên xay trong nước dừa non, uống hằng ngày. Đây là phép dưỡng sinh chống lão suy của người xưa.

Đu đủ chín coi là một món ăn bồi bổ và giúp sự tiêu hoá các chất thịt. Còn trong nấu ăn khi hầm các loại thịt, xương cứng người ta thường cho quả đu đủ xanh vào làm cho các thức ăn mau nhừ, nhuyễn, tiêu hoá tốt.

3. Làm đẹp với đu đủ:

Đu đủ rất giàu enzyme tự nhiên, dễ dàng thấm sâu vào làn da giúp đẹp da, mau lành các tổn thương trên da. Đu đủ cũng có tác dụng tẩy tế bào da chết, hồi phục sự tươi trẻ cho làn da.

Hỗn hợp massage da mặt từ đu đủ: Trộn đu đủ xay với một thìa dầu aloe vera và massage khắp cơ thể. Nên thực hiện đều đặn mỗi tháng 1 lần để tái tạo làn da.

Mặt nạ dành cho mọi loại da: Xay nhuyễn 1 quả đu đủ, 1 muỗng cà phê mật ong và chút nước cốt chanh. Đắp lên mặt 20 phút, rồi rửa sạch.

Với da mụn: dùng đu đủ chín bỏ vỏ và hạt, nghiền mịn làm mặt nạ lột da mặt, giúp chữa khỏi mụn trứng cá.

Quả đu đủ xanh nghiền nát với nước dùng bôi mặt hoặc tay để chữa chai chân và bệnh eczema.
Chú ý: Đặc tính tẩy tế bào chết ở đu đủ rất mạnh nên tránh dùng đu đủ trên các vùng nhạy cảm như vùng mắt, da non...

4. Chữa bệnh với đu đủ:

Trong đu đủ có chứa rất nhiều loại enzim, ví như enzim papain rất tốt cho tiêu hoá, giúp tiêu hoá các thức ăn giàu protein một cách dễ dàng hơn. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh celiac (một loại bệnh mà không thể tiêu hoá protein trong lúa mì, hay gliandin) thì có thể ăn đu đủ xanh để chữa căn bệnh này.

Ở Ấn Độ, Srilanka và Malaysia, người ta dùng lá, hạt và quả đu đủ xanh để phá thai. Các công trình nghiên cứu cho thấy tác dụng phá thai có được là do chất nhựa papain, có nhiều trong quả xanh, lá, hạt đu đủ. Chất này khi vào cơ thể sẽ phá huỷ progesterol là một trợ thai tố. Quả đu đủ đã chín ít nhựa thì không còn tác dụng này nữa.

Ở Mỹ người ta đã chứng minh rằng quả đu đủ có thể chế biến thuốc để chữa bệnh lệch khớp xương hay có thể chế ra thuốc tiêm, có công dụng làm giảm đau do các dây thần kinh gây nên.

5. Một số chú ý:

- Không nên ăn hạt đu đủ bởi trong hạt đu đủ có chứa chất độc gọi là carpine. Với một số lượng lớn carpine sẽ làm bạn bị rối loạn mạch đập và làm suy nhược hệ thống thần kinh.

- Không ăn nhiều đu đủ chín hàng ngày trong thời gian dài vì sẽ khiến phần da lòng bàn tay, bàn chân bị vàng. Hiện tượng này hết sau một thời gian ngừng ăn.

- Loại quả này giàu đường nên cũng không dùng nhiều cho người đường huyết cao.

- Đu đủ chín có tính nhuận tràng, nên kiêng với những trường hợp đang đi ngoài hay đang uống các thuốc nhuận tẩy của Đông Tây y.

- Ăn đu đủ nên hạn chế dùng lạnh vì bản thân đu đủ có tính hàn.

II. Công dụng của đu đủ

1. Tác dụng bảo vệ tim mạch

Vì đu đủ có chứa nhiều chất chống oxy hóa như vitamin C, E và A, các dưỡng chất này có tác dụng ngăn ngừa quá trình oxy hóa cholesterol, hạn chế các mảng tiểu cầu do quá trình oxy hóa cholesterol tạo ra bám vào thành mạch máu, gây tắc nghẽn mạch và làm máu không lưu thông được. Vitamin E và C của đu đủ kết hợp tạo ra hợp chất có thể ức chế quá trình oxy hóa.

Đu đủ còn là loại quả giàu chất xơ nên có tác dụng làm giảm mỡ máu (cholessterol), riêng acid folic có trong đu đủ có tác dụng làm chuyển hóa homocysteine thành acid amino cần thiết như cysteine hoặc methionine. Nếu không được chuyển hóa thì homocysteine có thể gây phá hủy trực tiếp các mạch máu, thậm chí nếu cao, có thể gây bệnh đau tim hoặc đột quỵ.

2. Tăng cường sức khỏe cho hệ tiêu hóa

Đu đủ chín chứa khoảng 70% nước, 13% đường, không có tinh bột, có nhiều carotenoit, axit hữu cơ, vitamin A, B, C, Protit, 0,9% chất béo, xenlulôzơ (0,5%), canxi, photpho, magiê, sắt, thiamin, riboflavin...
Chất xơ có trong đu đủ có thể "thu gom" các độc tố gây bệnh trong kết tràng và bảo vệ tế bào khỏe mạnh trước nguy cơ bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, trong đu đủ còn có chứa các dưỡng chất như: có tác dụng giảm thiểu bệnh ung thư kết tràng. Vì vậy, tăng cường ăn đu đủ cũng là biện pháp phòng ngừa ung thư kết tràng rất tốt cho mọi người.

3. Thuốc chống viêm nhiễm

Trong đu đủ có chứa 2 hợp chất có tác dụng làm giảm quá trình viêm nhiễm và làm lành các chấn thương. Ngoài ra, đu đủ còn có chứa nhiều vitamin C, E và betacarotene nên có tác dụng phòng ngừa viêm nhiễm ở mức cao nhất, bởi vậy những người bị bệnh hen suyễn, thấp khớp thường được bác sĩ kê đơn cho dùng các dưỡng chất nói trên.

4.Tăng cường sức đề kháng
Vitamin C và A do đu đủ cung cấp cho cơ thể sẽ giúp hệ miễn dịch làm việc tốt hơn, nhất là nguy cơ phòng chống các loại bệnh thường xuất hiện khi giao mùa như: cảm, cúm, viêm tai...

5. Giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp
Vitamin C có trong thực phẩm, đặc biệt là trong đu đủ lại có tác dụng bảo vệ cơ thể trước nguy cơ mắc bệnh polyarthiritis, một dạng bệnh viêm khớp dạng thấp.

6. Tăng cường chức năng phổi

Những người nghiện hút thuốc lá hoặc phải sống trong môi trường có khói thuốc (hút thuốc thụ động) thì nên bổ sung thực phẩm giàu vitamin A, trong đó có đu đủ.

III. Sự kỳ diệu từ lá đu đủ

Chất chiết xuất từ lá đu đủ cũng như trà được làm từ lá đu đủ có thể giúp chống khối u. đu đủ có tác dụng chống các khối u cổ tử cung, vú, gan, phổi và tuyến tụy. Chất chiết xuất từ lá đu đủ giúp kích thích sản sinh các phân tử giúp điều hòa hệ miễn dịch.Ngoài ra, chiết xuất từ lá đu đủ không gây tác dụng phụ cho các tế bào bình thường.

IV. Hoa đu đủ đực có thể chữa ho

Hoa đu đủ đực là một vị thuốc được dùng phổ biến để chữa ho. Khi dùng, hái hoa mới nở ngay tại nay, thường dùng tươi.

1. Chữa ho viêm họng:

- Hoa đu đủ đực 15 g, xạ can 10 gr, củ mạch môn 10 g, lá húng chanh 10 g.
- Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp cơm rồi nghiền nát.
- Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần, dùng 3 - 5 ngày.

2. Chữa ho kèm theo mất tiếng:

Hoa đu đủ đực 15 g, lá hẹ 15 g, hạt chanh 10 g, nước 20 ml.

Các dược liệu để tươi, nghiền nát với nước. Thêm ít mật ong hoặc đường kính, uống làm ba lần trong ngày.
Dùng 2 - 3 ngày.

3. Ho gà

- Hoa đu đủ đực 20 g (sao vàng)
- Vỏ quýt lâu năm 20 g
- Vỏ rễ dâu 20 g (tẩm mật sao lên)
- Củ bách bộ 12 g
- Phèn phi 12 g.
Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 3 lần.
Trẻ em 1 - 5 tuổi mỗi lần uống 1 - 4 g; trẻ 6 - 10 tuổi mỗi lần uống 5 - 8 g.

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2017

Đặc điểm cây đu đủ

Đặc điểm cây đu đủ

Cây đu đủ, tên La-tinh là Carica papaya, có nguồn gốc trung Mỹ. Đây là một cây trái rất quen thuộc được trồng ở khắp mọi nơi, từ một vài cây quanh nhà, bờ đê đến xen canh cây lâu năm, hoặc có nơi trồng nguyên vườn.


1. Đặc tính thực vật:
Đu đủ là một cây song tử diệp, nhưng thân không cứng và cũng không đâm nhánh, trừ phi đã bắt đầu già cỗi. Cây cao chừng 3-7m và ngọn có nhiều lá, cọng dài 60-70cm, mềm và rỗng ruột, gồm 7 phiến, rộng đến cả thước rưỡi. Thân đầy sẹo lá.

Đu đủ thường là cây đồng chu, nhưng đu đủ có thể xếp thành 3 loại trên phương diện giới tính: cây đực, cây lưỡng tính và cây cái. Vài cây đu đủ cũng có thể trổ cả ba loại hoa nói trên. Ngoài ra cũng có cây ra hoa không hẳn hoàn toàn đực, cái hay lưỡng tính mà lại pha lẫn nhiều ít đặc tính của ba loại hoa.

Khuynh hướng thay đổi giới tính phần lớn do thời tiết gây ra tỉ như khô hạn và thay đổi nhiệt độ. Nhiệt độ càng cao thì khuynh hướng sản xuất hoa đực càng lớn. Hoa đực ở cây đực màu hơi xanh lục, mọc từ nách lá trên những chùm dài, nhiều nhánh. Hoa cái ở cây cái lớn hơn, cuống rất ngắn, mọc rải rác hay hai ba hoa ở phần trên thân, sản xuất trái tròn, bầu dục hay hình trái lê, vỏ xanh hay vàng khi trái chín.

Cây đực lẽ dĩ nhiên là không có trái. Trái của hoa lưỡng tính được ưa chuộng hơn ở thị trường. Vì vậy, cần lựa chọn cây cho trái với loại hoa cái hay hoa lưỡng tính thích hợp. Nhà vườn không thể nào lựa chọn được, nếu chỉ gieo hột lấy từ trái thụ phấn tự do. Trái lại, nhà vườn có thể lựa chọn một cách khá chính xác cây nào là cái, cây nào là lưỡng tính bằng cách bao giấy hoa cái hay hoa lưỡng tính chưa nở, rồi tự lựa phấn để rắc tay (thụ phấn chéo) vào vòi noãn khi hoa cái hay hoa lưỡng tính nở. Những nghiên cứu về thụ phấn trên đu đủ cho biết rằng:

- Thụ phấn hoa cái bằng phấn hoa đực thì một nửa số cây con sẽ là cây đực, một nửa sẽ là cây cái.

- Dùng phấn hoa lưỡng tính để thụ phấn hoa cái thì một nửa số cây sẽ là cây cái, một nửa sẽ là cây lưỡng tính.
- Hoa lưỡng tính tự thụ tinh hay thụ phấn chéo với phấn hoa lưỡng tính khác thì cho tỉ lệ một cây cái hai cây lưỡng tính.

- Dùng phấn cây đực để thụ phấn hoa lưỡng tính thì một phần ba số cây sẽ là cây cái, một phần ba sẽ là cây đực, một phần ba sẽ là cây lưỡng tính.

Chiếu theo nghiên cứu này, phương cách 2) và 3) sẽ cho những cây con ra trái nhiều nhất. Nếu không làm thụ phấn bằng tay, nhà vườn cũng có thể để lại vài cây đực trong vườn thì đủ bảo đảm các hoa khác đều thụ phấn và ra trái.

Đu đủ là loại quả bổ dưỡng, nó chứa tới 0,6% chất đạm, 0,1 chất béo, 8,3-8,5% chất đường, 20-60% vitamine B,C. Đặt biệt chứa tới 2.000-35.000 đơn vị vitamine A, cao gấp 10 lấn chuối, dứa, gấp 5 lần quả bơ, ổi và gấp đôi xoài. Trong quả đu đủ có rất nhiều men Papain này làm mềm xương thịt.

2. Khí hậu:

Cây đu đủ phát triển tốt trong điều kiện khí hậu ấm và ẩm, lượng mưa 100mm/tháng, không bị che bóng mát. Đu đủ rất nhạy cảm với nhiệt độ và ẩm độ, khi nhiệt độ cao 30-35OC hoặc ẩm độ cao, lượng mưa nhiều 250-300mm/tháng, cây sẽ sinh trưởng kém, ít đậu trái. Nhiệt độ dưới 0OC làm cây chết, hư hại nặng nề. Nếu khi trái chín mà khí trời lạnh, không đủ nóng thì trái sẽ không ngọt. Đu đủ cũng cần nhiều mưa và mưa phân phối đồng đều. Nếu không mưa thì cần tưới nước, đu đủ mới cho nhiều trái. Thiếu nước mùa nắng, hoa sẽ ít đậu trái và trái non sẽ rụng nhiều. Tuy nhiên, nếu quá nhiều nước thì rễ, lá bị hư hại nhiều, cây phát triển chậm, yếu. Cây đu đủ không chịu đựng được gió to.

3. Đất đai

Đu đủ dễ tính có thể trồng trên đất có độ chua thích hợp pH từ 5,5-6,5. Đất trồng đu đủ phải giàu chất hữu cơ, tơi xốp, đất không hoặc ít phèn, thuận tiện cho việc tưới nước và thoát nước tốt khi có mưa lớn. Vùng đồng bằng phải lên líp thật cao và đường mương thoát nước phải sâu để dễ thoát nước. Chuẩn bị đất: Đất trước khi trồng nên đánh luống rộng 2-2,5m. Giữa các luống có rãnh sâu 30cm để thoát nước.

4. Thời vụ:

Đu đủ có khả năng trổ hoa và đậu trái quanh năm, tuy nhiên hạn chế sâu bệnh có thể bố trí trồng đu đủ vào đầu mùa mưa (tháng 4-5). Những vùng chủ động tưới tiêu trồng vào cuối mùa mưa (tháng 10- 11).

5. Giống:

Đu đủ có nhiều loại giống khác nhau nhưng phổ biến nhất là giống sau:

- Giống Hong Kong da bông: Cho năng suất cao, trọng lượng trái trung bình từ 2,5 - 3 kg, vỏ dày, chống chịu khá với nhện đỏ và các bệnh do virus. Thịt trái có màu vàng, hàm lượng đường từ 9 -10%.

- Đài Loan tím: Năng suất rất cao, trái nhiều, trọng lượng trái từ 1.2 - 1.5 kg. Thịt trái có màu đỏ tím, chắc thịt. Hàm lượng đường từ 10 -11%. Cây dễ bị nhện đỏ và các bệnh do Virus, nhưng vẫn có khả năng cho trái tốt trong những năm đầu.

- Giống EKSOTIKA: Cho phẩm chất ngon, thịt trái màu đỏ tía, chắc thịt, tươi đẹp, hàm lượng đường 13 - 14%, trọng lượng trái 500g - 1kg.

- Giống Sola: Có đặc điểm gần giống như EKSOTIKA nhưng thịt trái chắc hơn, thơm ngon hơn, hàm lượng đường 15 - 17%, trọng lượng trái  300 - 500g.

- Giống Hồng Phi 786: Cây phát triển rất khỏe, cây có trái sớm, cây có trái đầu tiên lúc cây cao khoảng 80cm. Tỷ lệ đậu trái cao, một mùa 1 cây có thể đậu 30 trái trở lên, sản lượng rất cao. Trái lớn, trọng lượng trái từ 1,5Kg - 2Kg, (có thể đạt 3 kg/ trái). Cây cái ra trái hình bầu dục, cây lưỡng tính cho trái dài. Da nhẵn bóng, thịt dày màu đỏ tươi, hàm lượng đường thông thường khoảng 13-14%, dễ vận chuyển.

Kỹ thuật trồng phủ bạt đu đủ Hồng Phi 786

Kỹ thuật trồng phủ bạt đu đủ Hồng Phi 786

Dùng bạt phủ nông nghiệp trồng Đủ đủ là một biện pháp kỹ thuật mới, người sản xuất nên áp dụng, chọn trồng những giống đủ đủ có năng suất cao, phẩm chất tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao


Việc dùng màng phủ nông nghiệp (bạt plastic) phủ lên mặt luống rồi mới trồng cây đu đủ có thể hạn chế được rệp truyền virus cho cây, hạn chế cỏ dại, ổn định nhiệt độ đất, thúc đẩy cây phát triển, vào mùa khô giữ được độ ẩm đất, giảm lượng nước bốc hơi, khi trời mưa tránh cho đất bị xói mòn gây tổn thương bộ rễ và nước mưa thấm xuống đất gây nên quá ẩm và phân bị rửa trôi…

Dùng bạt phủ nông nghiệp trồng Đủ đủ là một biện pháp kỹ thuật mới, người sản xuất nên áp dụng, chọn trồng những giống đủ đủ có năng suất cao, phẩm chất tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Xin giới thiệu kỹ thuật trồng đu đủ hồng phi 786 bằng phương pháp dùng bạt phủ:

I. Đặc tính của giống Hồng Phi 786:

Cây phát triển rất khỏe, cây có trái sớm, cây có trái đầu tiên lúc cây cao khoảng 80cm. Tỷ lệ đậu trái cao, một mùa 1 cây có thể đậu 30 trái trở lên, sản lượng rất cao. Trái lớn, trọng lượng trái từ 1,5Kg – 2Kg, (có thể đạt 3 kg/ trái). Cây cái ra trái hình bầu dục, cây lưỡng tính cho trái dài. Da nhẵn bóng, thịt dày màu đỏ tươi.

Thời vụ gieo trồng:

- Miền Bắc: vụ Xuân trồng vào tháng 2 – 4 hoặc vụ Thu cuối mùa mưa (Tháng 9 – 10).

- Miền Nam: trồng vào đầu mùa mưa (Tháng 4 – 5). Những vùng chủ động tưới tiêu trồng vào cuối mùa mưa (Tháng 10 – 11 ).

- Miền Trung: vụ Xuân trồng vào Tháng 12- 1, vụ Hè Thu trồng tháng 5-6.

II. Gieo hạt ươm cây :

1. Vườn ươm :

Hạt đu đủ có thể gieo trong bầu đất, trên luống hoặc trực tiếp vào các ụ đất đã được chuẩn bị để trồng. (Gieo trong bầu đất: Bầu đất có kích thước 12cm x 15cm. Đất + phân chuồng hoai mục trộn đều theo tỉ lệ 2 : 1).

Gieo trên luống: Đất làm kỹ cần 5-10kg phân hữu cơ hoai mục, 0,1-0,15 kg Supe lân, 0,3 –0,5 kg vôi rải đều, trộn lại trên 1m2

2. Gieo hạt :

Chọn hạt giống tốt. Ngâm trong nước 4 - 5 giờ vớt ra, ủ trong nhiệt độ 30 – 320C từ 4–5 ngày thì nứt mầm. Chọn những hạt nảy mầm gieo vào bầu đất, sâu 0,5–1cm. Gieo trên luống từ 7–10 ngày hột nảy mầm, khi cây được 5–7 lá (30 –50 ngày) thì có thể trồng.

3. Chọn đất :

Chọn đất ở vùng cao, thoát nước tốt, hoặc vùng đất đồi, nếu trồng ở vùng đồng bằng phải lên luống thật cao và đường mương thoát nước phải sâu. Đất giàu chất hữu cơ là lý tưởng nhất. Độ pH thích hợp từ 6 – 6,5

4. Làm đất, trồng :

* Mật độ, khoảng cách:

- Hàng x hàng: 2-2,5m; cây x cây: 2m; Mật độ: 2.000-2.100 cây/ha.

- Lượng giống cần cho 500 m2 : 2 – 2,5 gói (1 gram/gói, ~ 65 hạt/gói)

- Đất cày sâu lên luống cao, mặt luống rộng 1m, cao 0,4 – 0,5m, cây cách cây khoảng 2m, căn cứ vào khoảng cách để đào lỗ, bón phân lót rồi trộn đều với đất và đắp bằng. Cây đu đủ trước khi xuống giống 1 ngày phải tưới nước đầy đủ, lấy cây trong bầu ra rồi trồng xuống đất ngay thẳng, mỗi hốc trồng 1 cây, sau đó tưới nước. Đối với mặt luống dùng màng phủ nông nghiệp thì hố đào vừa túi bầu (khoảng 15 x 20 cm)

Mỗi hố cần: 5kg phân chuồng; 300g NPK (15-9-17+TE), 300g Supe lân, 250g bao hạt vàng, 200g vôi.

* Lượng phân bón lót/100 cây (khoảng 500 m2):

Phân chuồng: 500 kg; NPK (15-9-17 +TE): 30 kg; Supe lân: 30 kg; 25 kg bao hạt vàng; vôi: 20 kg

* Kỹ thuật trồng: Lấp đất phủ qua phần cổ rễ, nén chặt xung quanh. Tưới nước, giữ ẩm.

III. Chăm sóc

1. Cắm cây cọc: Thông thường đu đủ đều trồng thẳng, khi gặp gió bão phải cắm cọc chống gió, dùng 3 cây cọc cắm chéo hoặc 1 cây cọc cắm thẳng và cột chắc cây đu đủ vào cọc. Vào thời kỳ cây đậu trái nhiều mà gặp gió bão có thể chặt bớt một số lá già gần gốc, để giảm bớt sức cản gió, chống đổ ngã hoặc gãy.

2. Tỉa cành và hái trái: Sau khi xuống giống, nếu trên thân chính mọc ra nhánh con phải ngắt bỏ sớm. Vào thời kỳ đậu trái phải hái bỏ kịp thời những trái bị méo, bị sâu bệnh, những lá già héo chết phải ngắt bỏ luôn cuống lá.

3. Bón phân thúc: Cây đu đủ ra hoa đậu trái quanh năm, cần bón bổ sung phân cho cây để cây có thể đậu trái liên tục.

Sau đây là lượng phân bón dùng cho cây 1 năm: 0,4 - 0,5 kg urê + 0,5 - 1 kg supe lân + 0,2 - 0,3 kg kali sulfat (hoặc kali clorua) + 0,2 - 0,4 Canxinit hoặc Nitra bo.

Cách bón:

- Lần 1: Sau trồng 1,5-2 tháng, bón 1/3 đạm + 1/3 lân.

- Lần 2: khi cây ra hoa, bón 1/3 đạm + 1/3 lân + 1/2 kali + 1/2 Canxinit hoặc Nitra bo.

- Lần 3: Khi thu quả lứa đầu (sau trồng 6-7 tháng) bón hết đạm, lân, kali , Canxinit hoặc Nitra bo còn lại.

Cây 2 năm: Phân chuồng 5 – 10 kg + 0,3 - 0,4 kg urê + 0,5 – 1 kg supe lân + 0,3-0,4 kg kali sulfat (hoặc kali clorua).

Có thể qui ra phân NPK (15-9-17) +TE chuyên dùng cho rau ăn quả của C.ty phân bón Năm Sao) để bón thúc cho đu đủ.

Ghi chú: Ở những vùng đất thiếu Borax, cứ 100 cây đu đủ bón 0,25 – 0,5kg Borax.

4. Phòng trừ sâu bệnh:

a) Bệnh khảm: do côn trùng chích hút truyền nhiễm: nhện đỏ, rệp…

Mặt luống trồng phủ màng phủ nông nghiệp có thể hạn chế rệp.

Chăm sóc quản lý để cây đu đủ phát triển khỏe và nhanh, tăng cường sức kháng bệnh.

Vệ sinh vườn, phun các loại thuốc trừ côn trùng môi giới gây bệnh. Bệnh nặng phải hủy bỏ cây.

b) Nhện đỏ: Phun thuốc Ortus, Silsau, comite, Danitol, Kelthane…

c) Rệp, rầy: Vệ sinh vườn, phun các loại thuốc: Supracide, Regent, …

5. Thu hoạch: khi quả đã có vệt vàng trên vỏ quả (sau khoảng 2-3 tháng sau khi ra hoa) thì thu hoạch.

Kỹ thuật trồng đu đủ Đài Loan

Kỹ thuật trồng đu đủ Đài Loan

Giống đu đủ Đài Loan được trồng ở nước ta chủ yếu là giống lai F1 nên không thể lấy hạt trong quả của cây vườn nhà để trồng mà phải mua hạt giống trực tại công ty giống.


Giống đu đủ Đai Loan là giống đu đủ mới được nhập vào trồng ở nước ta trong thời gian gần đây. Do có nhiều ưu điểm: cây thấp trung bình 1,5-2,5m, sinh trưởng khỏe, ít bị nhiễm bệnh khảm, có ti lệ cây cái cao... nên nhanh chóng được trồng phổ biến khắp cả nước. Ở miền Nam giống đu đủ Đài Loan (giống đu đủTrạng nguyên ) được trồng nhiều ở các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ.

I. Kỹ thuật gieo ươm cây giống

- Ngâm ủ hạt giống: Chọn hạt giống có tỷ lệ nảy mầm cao, ngâm hạt vào nước, loại bỏ các hạt lép lửng, chỉ lấy các hạt chắc mẩy chìm dưới nước. Ngâm hạt trong nước ấm 3 sôi 2 lạnh trong 5 giờ rồi tiến hành ủ hạt trong bao tải đay ẩm. Thời gian ủ 4-5 ngày, hàng ngày nhặt các hạt nứt nanh nảy mầm mang gieo.

- Làm bầu gieo cây giống: Dùng túi nilon kích thước 12x7cm (có đục lỗ thoát nước), lấy đất phù sa hay thịt nhẹ, làm đất nhỏ kỹ, trộn phân chuồng hoai mục với tỷ lệ 3 đất 1 phân cho vào đầy túi. Mỗi bầu túi gieo một hạt, ấn nhẹ hạt vào trong bầu và phủ ít đất mịn lên trên. Gieo hạt xong cần tưới ẩm. Xếp các bầu cây vào khay, để ở nơi có mái che nắng mưa cho cây, nếu có điều kiện gieo trong nhà lưới là tốt nhất.

Tưới hàng ngày cho cây đủ ẩm bằng bình bơm, khi cây có 2-4 lá thật thì 2 ngày tưới 1 lần, điều chỉnh giàn che để cây con có đủ ánh sáng, cây sinh trưởng mới tốt, cây mọc thẳng và cứng cáp. Làm sạch cỏ và phòng trừ sâu bệnh hại cho cây con. Khi cây có 4-5 lá thật, cao 15-20cm có thể xuất vườn. Đu đủ Đài Loan cho năng suất cao và chất lượng quả rất tốt, song là cây giống lai F1 nên hạt không dùng để gieo làm giống được.

II. Kỹ thuật trồng

Có thể trồng đu đủ vụ xuân (tháng 3-4) hay vụ thu (tháng 9-10). Đu đủ sau trồng 2,5 tháng thì ra hoa, sau trồng 7 tháng thì cho thu hoạch quả xanh, thu hoạch quả chín thì sau 9 tháng.

Trồng đu đủ theo hố, kích thước dài/rộng/sâu là 60/60/30cm, khoảng cách trồng 2,5x2m (khoảng 2.000 cây/ha). Sau khi đào hố, tiến hành bón lót. Mỗi hố bón 10-15kg phân chuồng, 0,5kg lân, 0,2kg kali, 0,5kg vôi bột. Trộn đều tất cả phân với đất mặt rồi lấp đầy hố trồng.

Đặt bầu cây giữa hố, dùng dao sắc rạch nhẹ gỡ bỏ bầu nilon (không làm vỡ bầu), vun đất quanh bầu, nén chặt gốc và tưới đủ ẩm cho cây. Dùng rơm rạ hay bèo phủ giữ ẩm cho đất. Khi cây bén rễ sinh trưởng tốt, cắm cọc ghì cây để giữ cây khỏi đổ qua mưa gió bão, khi cây lớn nới dần dây buộc.

III. Chế độ chăm sóc

Bón thúc 3 lần trong năm đầu: lần 1 sau trồng 4-6 tuần, lần 2 khi cây ra hoa kết quả, lần 3 khi quả lớn. Mỗi lần bón 200g urê, 100g lân, 200g kali. Hoà toàn bộ phân vào nước, tưới xung quanh và cách gốc 30-40cm. Khi cây mang quả nặng cần cắm cọc chống gió bão cho đu đủ, cắt bỏ lá già gần gốc, khơi rãnh thoát nước chống úng cho cây; làm sạch cỏ dại, xới xáo cho đất thông thoáng. Mùa khô cần ủ rơm rạ quanh gốc giữ ẩm cho cây. Năm sau, cây đu đủ thường phát triển kém đi, chọn để lại những cây khoẻ, loại bỏ cây yếu kém và trồng thế bằng cây con mới. Chế độ chăm sóc năm sau không khác gì năm đầu.

Trong quá trình sinh trưởng, đu đủ có thể bị một số sâu hại như rệp sáp, bọ nhảy, bọ xít, nhện đỏ... phá. Có thể phun Decis 2,5 ND (nồng độ 0,1%), Trebon (1%) khi mật độ sâu hại cao. Các bệnh hại đu đủ như virus xoăn ngọn đốm vàng, bệnh phấn trắng, bệnh thán thư... Để phòng tránh bệnh nên thực hiện tốt luân canh cây trồng, chọn trồng giống kháng bệnh, bón cân đối NPK để cây khoẻ, chống chịu bệnh tốt. Phát hiện sớm bệnh để phun Daconil, Topsin hay Zineb, Mancozeb (đối với các bệnh nấm phấn trắng hay thán thư).