Cách trồng cây đu đủ
Đây là một cây trái rất quen thuộc được trồng ở khắp mọi nơi, từ một vài cây quanh nhà, bờ đê đến xen canh cây lâu năm, hoặc có nơi trồng thành vườn chuyên.Cây đu đủ tên La -tinh là Carica papaya L., nguồn gốc Trung Mỹ đã được nhà báo Oviedo người Tây Ban Nha mô tả năm 1526 ở bờ biển các nước Panama và Colombia. Rất có thể du nhập vào Việt Nam qua ngả Philiippines.
1. Đặc tính thực vật:
Đu đủ là một cây song tử diệp, nhưng thân không cứng và cũng không đâm nhánh, trừ phi đã bắt đầu già cỗi. Cây cao chừng 3-7m và ngọn có nhiều lá, cọng dài 60-70cm, mềm và rỗng ruột, gồm 7 phiến, rộng đến cả thước rưỡi. Thân đầy sẹo lá.
Đu đủ thường là cây đồng chu, nhưng đu đủ có thể xếp thành 3 loại trên phương diện giới tính: cây đực, cây lưỡng tính và cây cái. Vài cây đu đủ cũng có thể trổ cả ba loại hoa nói trên. Ngoài ra cũng có cây ra hoa không hẳn hoàn toàn đực, cái hay lưỡng tính mà lại pha lẫn nhiều ít đặc tính của ba loại hoa. Khuynh hướng thay đổi giới tính phần lớn do thời tiết gây ra như khô hạn và thay đổi nhiệt độ. Nhiệt độ càng cao thì khuynh hướng sản xuất hoa đực càng lớn. Hoa đực ở cây đực màu hơi xanh lục, mọc từ nách lá trên những chùm dài, nhiều nhánh. Hoa cái ở cây cái lớn hơn, cuống rất ngắn, mọc rải rác hay hai ba hoa ở phần trên thân, sản xuất trái tròn, bầu dục hay hình trái lê, vỏ xanh hay vàng khi trái chín. Cây đực không cho trái. Trái của hoa lưỡng tính được ưa chuộng hơn ở thị trường. Vì vậy, cần lựa chọn cây cho trái với loại hoa cái hay hoa lưỡng tính thích hợp. Nhà vườn không thể nào lựa chọn được, nếu chỉ gieo hột lấy từ trái thụ phấn tự do. Trái lại, nhà vườn có thể lựa chọn một cách khá chính xác cây nào là cái, cây nào là lưỡng tính bằng cách bao giấy hoa cái hay hoa lưỡng tính chưa nở, rồi tự lựa phấn để rắc tay (thụ phấn chéo) vào vòi noãn khi hoa cái hay hoa lưỡng tính nở. Những nghiên cứu về thụ phấn trên đu đủ cho biết rằng:
a- Thụ phấn hoa cái bằng phấn hoa đực thì một nửa số cây con sẽ là cây đực, một nửa sẽ là cây cái.
b- Dùng phấn hoa lưỡng tính để thụ phấn hoa cái thì một nửa số cây sẽ là cây cái, một nửa sẽ là cây lưỡng tính.
c- Hoa lưỡng tính tự thụ tinh hay thụ phấn chéo với phấn hoa lưỡng tính khác thì cho tỉ lệ một cây cái hai cây lưỡng tính.
d- Dùng phấn cây đực để thụ phấn hoa lưỡng tính thì một phần ba số cây sẽ là cây cái, một phần ba sẽ là cây đực, một phần ba sẽ là cây lưỡng tính.
Chiếu theo nghiên cứu này, phương cách b) và c) sẽ cho những cây con ra trái nhiều nhất. Nếu không làm thụ phấn bằng tay, nhà vườn cũng có thể để lại vài cây đực trong vườn thì đủ bảo đảm các hoa khác đều thụ phấn và ra trái.
2. Yêu cầu về khí hậu đất đai
Cây đu đủ rất ưa nắng và trời ấm áp. Nếu khi trái chín mà nhiệt độ khí trời lạnh, không đủ nóng thì trái sẽ lạt nhách. Đu đủ cũng cần nhiều mưa và mưa phân phối đồng đều. Nếu không thì cần tưới nước, đu đủ mới cho nhiều trái. Thiếu nước mùa nắng, hoa sẽ ít đậu trái và trái non sẽ rụng nhiều. Tuy nhiên, nếu quá nhiều nước, nhất là nước đọng thì cây mọc hay phục hồi chậm, yếu. Lá, rễ bị hư hại nhiều. Cây đu đủ cũng không chịu đựng được gió to.
Đu đủ có hệ thống rễ đuôi chuột và như vậy đòi hỏi đất nhẹ, nhiều mùn, thoáng khí. Đất có độ pH từ 6 đến 6,5 là thích hợp nhất. Tuy đu đủ được trồng bất cứ mọi nơi, nhưng muốn năng suất cao thì phải bón phân. Mỗi năm bón cho mỗi cây độ chừng 50kg phân rác mục, cây sẽ cho nhiều trái. Bón phân đạm cho đu đủ, lá sẽ xanh tươi. Bón phân lân, đu đủ sẽ mọc mạnh và kháng bệnh tật hơn. Bón phân kali, trái đu đủ sẽ giòn và ngọt hơn. Ở đất nghèo nên bón cho mỗi cây con, khi mới đặt vào lỗ, hay sau đó ít lâu khoảng 200 – 250g phân hỗn hợp 10-10-5 (trong đó 30% đạm nguồn gốc hữu cơ). Số lượng này bón hai tuần một lần và tăng thêm dần dần đến 500-600g, khi cây được 7-8 tháng. Sau đó chỉ bón hàng tháng là đủ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng cho năng suất cao, trừ phi mưa to quá làm trôi phân đi thì phải bón lại phân ngay.
3. Nhân giống và trồng trọt
Tháp hay giâm cành đu đủ đều được cả, nhưng tốn công vô ích. Trái lại trồng bằng hột thì dễ dàng tiện lợi. Trái đu đủ đã nhiều hột, mà hột lại tồn trữ dễ dàng. Hột vẫn còn nẩy mầm sau ba năm nếu đựơc tồn trữ nơi khô ráo và mát mẻ. Gieo hột càng tươi càng tốt và nên chọn hột ở trái chín.Hột phải rửa sạch chất nhờn bao quanh trước khi gieo trên liếp ươm, ngoài nắng, thành hàng song song cách nhau 20cm. Hột nảy mầm đều đặn sau 10-15 ngày. Cũng có thể gieo hai ba hột trong bầu nhỏ để trừ hao khi hột ít nảy mầm, sâu bệnh phá hại hay để tỉa bớt cây đực.
Cây con được một tháng ở liếp ươm thì đem cấy ở vườn ươm ở khoảng cách 0,50 x 0,50m hay tốt hơn nữa cấy cây trong bao nhựa dẻo. Khi cây con cao 50cm thì đem trồng. Hố trồng có kích thước 0,60 x 0,60 x 0,60m là vừa.
Cây đu đủ lấy trái trồng ở khoảng cách 3,50 x 3,50m. Nếu trồng để lấy nhựa, lấy mủ thì ở khoảng cách gần hơn 2 x 2m hay 2 x 3m. Trồng hàng đôi 2 x 2m và cứ hai hàng lại chừa một khoảng cách là 4m thì có thể trồng xen kẽ cây khác ở giữa các hàng đu đủ.
Khoảng 5 – 6 tháng sau khi đặt vào hố, cây đu đủ bắt đầu trổ hoa. Chỉ nên giữ lại các cây cái hay cây lưỡng tính mọc mạnh, tỉa bỏ các cây khác. 9 – 10 tháng sau khi trồng là đu đủ đã có trái và cây ra trái suốt năm. Đu đủ có thể sống 20 năm. Nhưng mức sản xuất chỉ đáng kể trong 10 năm đầu. Mức năng suất khá là chừng 15 tấn/ha/năm thì có thể thương mại được. Trồng để lấy mủ thì chỉ khai thác được trong vòng ba bốn năm mà thôi.
4. Các giống đu đủ
- Ở miền Nam, trước tiên nên kể ra giống đu đủ ruột đỏ, dày, giòn, thơm ngon, nhưng ít ngọt, trồng nhiều ở đất giồng đồng bằng sông Cửu Long, giáp biên giới Campuchia. Đu đủ ruột đỏ gồm nhiều hoa lưỡng tính đậu trái và như vậy cây nào cũng có trái. Trái hình bầu dục, đầu nhọn, màu xanh, hơi vàng khi trái chín. Một giống đu đủ khác là đu đủ ruột vàng cũng tìm thấy ở đất giồng. Đu đủ này có nhiều cây đực. Trái nhiều , tròn nhưng ngắn và có màu vàng khi trái chín. Hột cũng nhiều hơn, ruột mỏng và mềm nhũn, ăn hơi hôi.
- Một giống nữa ở miền Nam có ruột vàng hay vàng cam, trái hình bầu dục và ngọt nhưng ít thơm hơn đu đủ đỏ.
- Giống Solo nguồn gốc xứ Barbade ở Nam Mỹ nhưng được tuyển chọn ở Hawaii lâu ngày là giống duy nhất được thương mại hóa ở thị trường quốc tế. Các trái Solo đều phát sinh từ hoa lưỡng tính tự thụ phấn lấy, cỡ trái đều đặn, to vừa phải, hình quả lê tây và mùi vị được ưa chuộng. Đu đủ Solo đã được phổ biến nhiều ở Phi Châu. Trước đây có đem trồng ở Việt Nam. Ở Việt Nam, Solo có ruột màu cam. Hiện ở Hawaii còn có giống Solo cải thiện gọi là giống “Solo trời mọc” (Sunrise Solo), có ruột màu hồng lợt, nên du nhập trồng thử ở Việt Nam.
Vì có một di sản gen phức tạp, nên khó mà giữ cho đồng nhất một giống đu đủ có đầy đủ các đặc tính của giống nguyên sinh. Nếu để đu đủ thụ phấn tự do sẽ không lựa chọn được các cây đu đủ có loại hoa và loại trái nguyên dạng.
Áp dụng phương cách kiểm soát thụ phấn bằng tay như đã trình bày thì có thể duy trì lâu năm giống đu đủ gần đúng nguồn gốc được.
5. Công dụng khác của đu đủ
Trái đu đủ non xắt nhỏ đã thấy bán nhiều như giá đậu nành hay giá đậu xanh ở các siêu thị Trung Hoa hay ViệtNam, ở các tiểu bang Mỹ có nhiều người Á Đông. Rễ đu đủ cũng ăn được như cọng rau đắng. Sắc hoa đu đủ uống làm thuốc hạ nhiệt và bớt đau ngực. Phơi khô hoa đu đủ và tán ra bột có thể pha thành thuốc trị sán lãi. Lá chứa chất alcaloid gọi là carpaine thay thế được chất digitalin trị bệnh tim. Cuốn thịt quá cứng với lá đu đủ làm thịt mềm đi nhiều. Chích lá hay trái thì mủ chảy ra và đông đặc nhanh chóng. Mủ này chứa chất enzym mạnh là papain có đặc tính giống như pepsin làm tan các chất “thịt” albuminoid. Ở Sri Lanka, người ta khai thác papain bằng cách rạch dọc trái, ban sáng tinh sương với mảnh chai hay thẻ tre nhọn. Tránh cho papain đụng nhằm tay hay kim khí, ngoại trừ nhôm (aluminium), mỗi ngày mỗi trái cho 10g mủ chứa 12 – 15% chất khô. Một hecta đu đủ sản xuất khá cho chừng 200 kg papain mỗi năm. Cần 2 kg mủ tươi để cho 0,5 kg papain khô. Mủ tươi phải đem sấy khô ngay hoặc thêm một chút formol vào mủ tươi thì không bị thối hay bị phân hoá.