Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018

Nấm đông cô có thể ngăn ngừa virus HPV

Nấm đông cô có thể ngăn ngừa virus HPV

Nấm không chỉ là thức ăn bổ dưỡng và ít calo mà chúng còn góp phần vào việc phòng chống ung thư do virus HPV gây ra ở nữ giới.

Virus gây u nhú ở người (HPV) là một loại virus phổ biến và rất dễ lây. Chúng lây nhiễm qua những vùng da mỏng như cổ tử cung, miệng hay cổ họng.

Hơn 3/4 phụ nữ đều nhiễm loại virus này và có thể nhiễm một số chủng của HPV gây ung thư cổ tử cung.

Theo nghiên cứu của Mỹ, các nhà khoa học đã tìm thấy hợp chất tương quan Hexoza (AHCC) có trong nấm đông cô. Được biết hợp chất này có thể ngăn ngừa các bệnh ung thư liên qua đến virus HPV.

Khi thử nghiệm trên chuột bạch, AHCC cho kết quả có thể diệt virus HPV trong vòng 90 ngày và giảm tốc độ tăng trưởng khối u cổ tử cung.

Giáo sư Tiến sĩ Judith Smith, Đại Học Y Khoa Texas cho biết: “AHCC rất có tiềm năng trong việc điều trị các bệnh lây nhiễm do virus HPV gây nên”.

Các nhà khoa học cũng cho biết, có thể sử dụng AHCC để điều chế thành thực phẩm bổ sung, sử dụng thay thế cho vắc xin ngừa HPV. Bởi AHCC hoạt động như một liệu pháp miễn dịch. Chúng sử dụng chính hệ thống miễn dịch của con người để chống lại bệnh.

Thông tin liên hệ:

Website: http://Caygiong.org
Điện thoại: 0986 266 563 – 024 668 07 969

Vị thuốc hay từ nấm hương

Vị thuốc hay từ nấm hương

Nấm hương, còn gọi là hương tín, hương tẩm, hương cô, đông cô… Theo quan niệm của y học cổ truyền, nấm hương vị ngọt tính bình, có công năng bổ tỳ ích khí, dưỡng huyết hòa huyết, tiêu đờm, chữa được bệnh sởi - đậu chẩn

Có nhiều cách dùng nấm hương, đơn giản nhất là ăn riêng nhưng thông thường người ta hay sử dụng nó như một thứ phụ trợ trong các món ăn được chế biến từ nhiều loại thực phẩm. Tuy nhiên việc lựa chọn và phối hợp nấm hương với các loại thức ăn khác cũng đòi hỏi phải có nguyên tắc nhất định theo quan điểm của dinh dưỡng học cổ truyền. Dưới đây là một số phương thuốc dùng nấm hương phối hợp điển hình.

Phương 1: Nấm hương 250g, mộc nhĩ đen 100g, thịt gà mái 500g. Nấm hương và mộc nhĩ ngâm nước cho nở hết rồi cắt bỏ chân, rửa sạch và thái chỉ. Thịt gà rửa sạch chặt miếng. Tất cả cho vào nồi, đổ một lượng nước vừa đủ, hầm nhừ bằng lửa nhỏ, chế thêm gia vị, ăn nóng. Phương này có công dụng kiện tỳ bổ thận, ích khí dưỡng huyết, có thể dùng để chữa các chứng bệnh có biểu hiện khí huyết suy nhược, mệt mỏi nhiều, mắt mờ, đầu choáng, mất ngủ, hay quên.

Phương 2: Nấm hương 200g, đậu tương 50g, dầu vừng và tỏi lượng vừa đủ. Nấm hương ngâm nước cho nở hết rồi cắt bỏ chân, rửa sạch. Ðậu tương ngâm nước rồi đãi bỏ vỏ. Tất cả cho vào nồi, đổ nước vừa đủ rồi hầm nhừ, chế thêm dầu vừng, tỏi đập giập và gia vị vừa đủ, ăn nóng. Phương này có tác dụng điều trị hỗ trợ cho trẻ em bị còi xương, người già bị loãng xương và chứng phù thũng.

Phương 3: Nấm hương 150g, chân giò lợn 1 cái, gia vị vừa đủ. Chân giò lợn làm sạch, chặt miếng rồi đem hầm nhừ. Tiếp đó cho nấm vào đun chín là được, chế thêm gia vị, ăn nóng. Phương này có tác dụng bồi bổ âm dương, kiện tỳ ích vị, dưỡng huyết, kích thích sự thèm ăn, tăng số lượng và chất lượng sữa ở phụ nữ cho con bú.

Phương 4:
Nấm hương 100g, bồ dục lợn 2 đôi, gia vị vừa đủ. Nấm hương ngâm nước cho nở hết rồi rửa sạch, cắt chân. Bồ dục lợn bổ đôi, ngâm nước lạnh 2 giờ, lọc bỏ gân trắng rồi thái miếng. Xào nấm và bồ dục lợn riêng rẽ, khi chín thì trộn cả hai vào nhau, chế thêm gia vị là được. Phương này có tác dụng bổ thận tráng dương, kích thích tiêu hóa. Thích hợp cho những người yếu sinh lý, hay đau lưng mỏi gối, ăn uống không ngon miệng.

Nấm hương tuy giàu dinh dưỡng, có tác dụng bồi bổ rất tốt nhưng không nên ăn quá nhiều, mỗi ngày chỉ nên ăn dưới 50g là tốt nhất. Những người tỳ vị hư hàn, đại tiện quá lỏng, quá nát không nên dùng.

Thông tin liên hệ:

Website: http://Caygiong.org
Điện thoại: 0986 266 563 – 024 668 07 969

Nấm Đông cô và các vị thuốc

Nấm Đông cô và các vị thuốc

Thành phần hoá học: Trong 100g nấm đã sấy khô có12,5g chất đạm, 1,6 g chất béo, 60g chất đường, 16mg can-xi, 240mg kali và 3,9g sắt, các vitamine


Nấm Đông Cô hay Nấm Hương (danh pháp khoa học: Lentinula edodes) là một loại nấm ăn có nguồc gốc bản địa ở Đông Á. Tiếng Anh và các ngôn ngữ châu Âu gọi nó theo tên tiếng Nhật, shiitake listen (trợ giúp·chi tiết) (kanji: 椎茸; có nghĩa "nấm shii", từ tên loại cây mà người ta trồng nấm này lên đó.

Nấm hương tên khoa học Lentinus edodes (Berk) thuộc họ nấm tán (polyporaceae). Gọi là nấm hương vì chúng có mùi thơm.

Cấu tạo : Nấm hương có một chân đính vào giữa tai nấm. Mặt trên tai nấm màu nâu, mặt dưới có nhiều bản mỏng xếp lại.

Nấm hương thuộc loại lâm sản quí, mọc hoang trong rừng ẩm mát các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái nguyên, Hoà Bình….

Bào tử nấm bay rất xa, bám vào các thân gỗ, nấm trên gỗ côm được xếp vào loại nhất.

Thành phần hoá học: Trong 100g nấm đã sấy khô có12,5g chất đạm, 1,6 g chất béo, 60g chất đường, 16mg can-xi, 240mg kali và 3,9g sắt, các vitamine

Nhờ hương vị đặc biệt thơm ngon, lại giàu chất dinh dưỡng, nấm trở thành nguồn thực phẩm ngày càng phổ biến trong đời sống ẩm thực. Theo các nhà y học, nấm chứa nhiều protein và các axit amin rất cần cho cơ thể con người. Ngoài ra, nấm còn chứa nhiều loại Vitamin (A, B, C, D, E...) và các chất kháng sinh, vi lượng cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Là loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng nhưng nấm không gây chứng xơ cứng động mạch và không làm tăng cholesterol trong máu như các loại thực phẩm nguồn gốc động vật.

Nếu trước đây, nấm chủ yếu được thu hái tự nhiên từ rừng, thì giờ đây nấm đã được trồng đại trà ở các hộ gia đình, các trang trại theo phương thức sản xuất hàng hóa. Công nghệ trồng nấm cũng được các Viện, các Trung tâm đầu tư nghiên cứu và đưa ra thành chuỗi quy trình khá đơn giản, dễ thực hiện. Từ gỗ mục, mùn cưa đến rơm rạ, bã mía, vỏ ngô,... đều có thể được tận dụng làm nguyên liệu để chế thành nguồn thức ăn “nuôi” nấm.

Trồng nấm hương thường phải chặt gỗ, tưới nước rồi cấy bào tử nấm vào. Người trồng nấm có thể chỉ cần mua các bịch chứa “thức ăn” đã cấy sẵn bào tử nấm về, đặt các bịch này lên giá đỡ và tưới nước sạch hàng ngày, sau một thời gian là được thu hoạch. Ngay cả nấm linh chi là loại nấm dược liệu quý, giờ đây cũng có thể được trồng đại trà theo công nghệ đơn giản này.

Từ các loại nấm hương, mộc nhĩ, nấm rơm, nấm sò, nấm mỡ,... có thể chế biến thành nhiều loại món ăn khác nhau, từ món súp khai vị, xào thập cẩm cho đến món nấm luộc đơn giản chấm tương gừng. Có nhiều món ăn mà trong đó nấm chỉ là thành phần nguyên liệu phụ nhưng lại tạo nên hương vị riêng rất hấp dẫn như: Tôm nõn xào nấm, lẩu hải sản - nấm hương, tim cật xào nấm tuyết, măng miến nấu với mộc nhĩ...

Trong y học, nấm được coi là loại dược phẩm quý có tác dụng bồi dưỡng cơ thể, tăng sức đề kháng. Nấm linh chi có xuất xứ từ các núi đá vùng Tây Tạng, Triều Tiên,... có tác dụng chống sự di căn của khối u, an thần; mộc nhĩ trắng có chất chống phóng xạ; nấm hương bổ gan; nấm vân chi chống ung thư...

Các hoạt chất dược liệu của nấm dễ tinh chế, chiết suất. Trường hợp sử dụng nấm đơn giản trong các bữa ăn hàng ngày, các hoạt chất này vẫn phát huy tác dụng. Nấm hương từ xưa được coi là “món ăn vị thuốc” quí vì ăn thường xuyên nấm hương sẽ làm tăng sức đề kháng, tốt cho gan và đặc biệt là làm giảm cholesterol trong máu.

Còn gan nhiễm mỡ? Nếu gan nhiễm mỡ do rượu, do hút thuốc lá thường xuyên thì nấm gì cũng chào thua. Nếu gan đã bị nhiễm siêu vi B,C, các tế bào gan đã bị suy yếu, bị bọc mỡ thì ăn nấm là cách thay đạm động vật bằng đạm thực vật để gan không bị quá tải.

Thông tin liên hệ:

Website: http://Caygiong.org
Điện thoại: 0986 266 563 – 024 668 07 969

Nấm Đông cô giúp cải thiện chức năng miễn dịch

Nấm Đông cô giúp cải thiện chức năng miễn dịch

Nấm đông cô, hay còn gọi là nấm hương rất tốt cho chúng ta, và các sản phẩm phụ từ nấm đông cô có thể hữu ích cho các cây trồng khác nữa.


Những loại nấm này có chứa chất polysaccharide có phân tử lượng cao (HNWP), và chất này đã được một vài cuộc nghiên cứu chứng minh rằng, nó có thể cải thiện chức năng miễn dịch ở người. Một cuộc nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng, chất eritadenine trong nấm đông cô có thể giúp làm giảm lượng cholesterol.

Nhà nông học David Brauer thuộc Sở Nông nghiệp Hoa Kỳ (ARS) đang nghiên cứu việc sản xuất nấm đông cô tại trung tâm nghiên cứu của sở ở Booneville, Ark. Cộng tác cùng các nhà sản xuất tại trung tâm nghiên cứu nấm đông cô ở Shirley, Ark, Brauer đánh giá xem liệu nấm đông cô mọc ở gỗ có lượng HMWP cao hơn nấm mọc ở trang trại hay không.

Nhóm nghiên cứu đã ghép các khúc gỗ với các bào tử từ 3 loại nấm đông cô khác nhau và so sánh sản lượng của nó với sản lượng nấm đông cô được trồng ở trang trại. Họ nhận thấy rằng, nấm mọc ở gỗ có lượng HMWP cao hơn nấm được trồng ở trang trại khoảng 70%.

Nhóm nghiên cứu còn quan sát thấy rằng, nấm đông cô mọc ở những khúc gỗ cây sồi màu đỏ và trắng có lượng HMWP cao hơn nấm đông cô mọc ở những khúc gỗ có nhựa cây.

Nấm đông cô mọc ở các khúc gỗ đặc biệt có các hợp chất có thể cải thiện chức năng miễn dịch ở người cao hơn các loại nấm đông cô mọc ở các trang trại.

Những khúc gỗ được dùng trong sản xuất nấm đông cô thường cho năng suất cao khoảng từ 2 đến 3 năm. Các nông trại trồng nấm đông cô lớn hơn có thể có trên 3.000 khúc gỗ và bỏ đi khoảng 1.000 khúc gỗ mỗi năm.

Không để lãng phí những khúc gỗ đã được sử dụng đó, nhóm của Brauer đã đập vụn các khúc gỗ này ra, cho thêm phân ure và vỏ bào từ các cây thân cỏ vào, sau đó trộn hỗn hợp này lại thành 1 loại phân trộn. Họ nhận thấy rằng, lượng Nitơ trong loại phân trộn này có thể sánh cùng lượng Nitơ có trong các chất cải tạo đất được mua ở ngoài thị trường.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng phân trộn từ gỗ này để cải tạo đất trong hệ thống trồng rau nhà kính và nhận thấy rằng, các cây trồng từ hạt có tốc độ phát triển nhanh hơn những cây được trồng ở đất không được cải tạo. Sử dụng phân trộn được tái chế cũng là 1 cách để người trồng nấm tăng lợi nhuận.

Thông tin liên hệ:

Website: http://Caygiong.org
Điện thoại: 0986 266 563 – 024 668 07 969

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

Nấm mỡ và những công dụng bất ngờ với sức khỏe

Nấm mỡ và những công dụng bất ngờ với sức khỏe

Nẫm mỡ là một loại nấm ăn được có công dụng tuyệt vời về mặt y học với sức khỏe con người. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có sản phẩm y dược nào có chiết xuất từ loại nấm này. Nấm được sử dụng phổ biến dưới dạng thực phẩm.

Công dụng của nấm mỡ


Theo các tài liệu y học cổ truyền, nấm mỡ vị ngọt, tính mát, có công dụng bổ tỳ ích khí, nhuận phế hoá đàm, tiêu thực lý khí, rất thích hợp cho những người chán ăn mệt mỏi do tỳ vị hư yếu, sản phụ thiếu sữa, viêm phế quản mạn tính, viêm gan mạn tính, hội chứng suy giảm bạch cầu… Sách Bản thảo cương mục viết nấm mỡ có tác dụng “ích tràng vị, hoá đàm lý khí”.

Các nghiên cứu dinh dưỡng hiện đại thì khẳng định: nấm mỡ có khả năng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn và trực khuẩn coli. Nhiều năm trở lại đây, người ta cũng đã nhận thấy việc dùng nấm mỡ làm thức ăn hàng ngày hoặc thường xuyên uống nước sắc loại nấm này khả năng trị liệu viêm gan mạn tính và chứng giảm thiểu bạch cầu. Ngoài ra, nấm mỡ còn có công dụng làm giảm đường máu, hạ nồng độ cholesterol trong huyết thanh và cải thiện chức năng tuyến tuỵ. Bởi vậy, nấm mỡ được đánh giá là một trong những thực phẩm thích hợp dành cho người bị bệnh tim mạch, đái đường, ung thư hay mắc các bệnh lý về tuyến tuỵ.

Các món ăn chế biến từ nấm mỡ

Nẫm mỡ có những công dụng tuyệt với về mặt y học với sức khỏe con người. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có sản phẩm y dược nào có chiết xuất từ loại nấm này. Nấm được sử dụng phổ biến dưới dạng thực phẩm. Dưới đây là 4 công thức chế biến món ăn từ nấm mỡ thành thức ăn, ngon miệng và có lợi cho sức khỏe con người.

Công thức 1:  Nấm mỡ xào ếch.

Chuẩn bị  200g nấm mỡ, đùi ếch 100g, hành, gừng tươi, tỏi, hạt tiêu, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Đùi ếch lột da, rửa sạch, chiên non qua dầu; nấm mỡ thái đôi, chần qua nước sôi, để ráo nước. Phi hành tỏi cho thơm rồi xào lẫn đùi ếch với nấm, chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng: Ích vị kiện tỳ, lý khí hoá đàm, thanh nhiệt lợi niệu.

Công thức 2: Nấm mỡ xào tôm

Nấm mỡ 200g, tôm tươi 500g, cà rốt, măng củ, hành, gừng tươi, dầu thực vật, bột đao và gia vị vừa đủ. Nấm rửa sạch, thái đôi hoặc thái miếng vừa ăn, chần qua nước sôi, để ráo nước; tôm bóc vỏ, bỏ đầu, rửa sạch, ướp nước gừng và gia vị; cà rốt và măng củ rửa sạch, thái mỏng. Phi hành cho thơm rồi xào lẫn tôm với cà rốt và măng trước, kế đó cho nấm vào, đun to lửa một lát là được, chế đủ gia vị. Công dụng: Bổ thận tráng dương, kiện tỳ ích vị, hoá đàm tiêu thực.

Công thức 3: Nẫm mỡ hầm đậu phụ

Nấm mỡ 150g, đậu phụ 300g, măng củ 100g, nước dùng (nước luộc gà hoặc nước ninh sườn) 200ml, hành, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Nấm rửa sạch, bổ đôi, chần qua nước sôi; măng thái mỏng; đậu phụ xắt miếng vừa ăn. Tất cả cho vào nồi, chế đủ gia vị, đổ nước dùng vào đun sôi khoảng 10 phút là được. Công dụng: Kiện tỳ ích vị, sinh tân nhuận táo, thanh nhiệt giải độc.

Công thức 4: Nấm mỡ xào lòng non

Nấm mỡ 350g, lòng non lợn 500g, hành, tỏi, gừng tươi, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Lòng non làm sạch, thái khúc chừng 2cm, gừng thái phiến, hai thứ cho vào nồi áp suất đun trong 2 phút rồi lấy ra, để ráo nước; nấm mỡ rửa sạch, thái đôi, chần qua nước sôi. Phi hành tỏi cho thơm rồi xào nấm với lòng non, chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng: Kiện vị tiêu thực, lý khí hoá đàm, thanh tràng chỉ huyết.

Trên đây là 4 công thức chế biến thức ăn đơn giản và bổ cho sức khỏe. Tuy nhiên, có một điều cần phải lưu ý khi sử dụng nấm mỡ là: loại nấm này dễ gây dị ứng. Nên những người mẫn cảm với nấm thì không nên dùng. Hoặc khi dùng nấm thì phải hết sức cẩn thận.

Kỹ thuật trồng nấm mỡ tại nhà

Kỹ thuật trồng nấm mỡ tại nhà

Nấm mỡ có nguồn gốc từ những nước có khí hậu ôn đới. Quả thể nấm gồm cuống nấm và mũ nấm. Mũ nấm có màu trắng, đường kính từ 3- 8,0cm.


1.1. Tên gọi và vị trí phân loại:

- Tên khoa học: Agaricus bisporus; A. bitorquis.
- Tên tiếng Anh - thương mại: Button mushroom; White mushroom, Champignon de Paris.
- Tên khác: Nấm trứng, Nấm trắng, Nấm búp, Nấm khuy.
- Nấm mỡ thuộc chi Agaricaceae, bộ Agaricales, lớp Hymenomycetes, ngành phụ Basidiomycotina, ngành Nấm thật- Eumycota, giới Nấm- Mycota.
- Nấm mỡ nuôi trồng ở nước ta chủ yếu là loài Agaricus bisporus, ngoài ra còn có các chủng A. bitorquis, A. blazei (có màu nâu). Nấm mỡ được nuôi trồng đầu tiên ở Pháp (1650) ở Việt Nam được nuôi trồng vào những năm 80 của thế kỷ trước.

1.2. Đặc tính sinh học của nấm mỡ:

- Nấm mỡ có nguồn gốc từ những nước có khí hậu ôn đới. Quả thể nấm gồm cuống nấm và mũ nấm. Mũ nấm có màu trắng, đường kính từ 3- 8,0cm. Khi cây nấm trưởng thành, màng bao phía dưới bị rách nấm xoè như chiếc ô, các bào tử nấm mầu nâu sẫm phát tán ra ngoài. Trong điều kiện tự nhiên gặp môi trường thuận lợi các bào tử nảy mầm thành hệ sợi sơ cấp và kết với nhau thành sợi thứ cấp. Sợi thứ cấp tích luỹ đủ dinh dưỡng hình thành quả thể và chu kỳ mới lại bắt đầu.
- Nhiệt độ thích hợp trong giai đoạn nuôi tơ là 24 - 25°C, giai đoạn ra nấm cần nhiệt độ từ 15 - 18°C.
- Độ ẩm trong cơ chất (nguyên liệu compost) từ 65 - 70%. Độ ẩm không khí > 80%.
- pH của môi trường nuôi trồng cũng như nước tưới bằng 7,0 - 8,0 (trung tính hoặc kiềm yếu).
- Ánh sáng: không cần thiết cả giai đoạn nuôi sợi và quả thể.
- Độ thông thoáng vừa phải nồng độ CO2 < 0,1%.
- Dinh dưỡng: nấm mỡ không sử dụng Cellulose trực tiếp mà sử dụng thức ăn  là bã “mục thứ cấp” nên ta phải có quá trình xử lý nguyên liệu và phối trộn thêm các phụ gia (phân hữu cơ, phân vô cơ) để tạo môi trường thích hợp nhất cho nấm phát triển gọi là compost.
- Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong compost trồng nấm mỡ tối ưu gồm:
N (đạm)        2,2- 2,5%.
P (phot pho)    1,2- 2,5%.
Ca (Can xi)        2,5- 3,0%.
Tỷ lệ: C/N là:    14- 16/1
Lượng NH4 (amoniac):    < 0,1%.
w (độ ẩm):        65- 70%.

2. Thời vụ nuôi trồng nấm mỡ:

Nấm mỡ chủ yếu trồng ở các tỉnh phía Bắc, miền Nam nấm được trồng ở Đà Lạt. Vụ nấm kéo dài từ 15/10 năm trước tới 15/4 năm sau. Nhưng thời gian ủ rơm rạ chỉ giới hạn từ 15/10 đến 5/12 dương lịch hàng năm. Tốt nhất là ủ rơm rạ từ 15/10 đến 15/11. Nếu làm sớm hoặc làm muộn hơn sẽ gặp thời tiết không thuận lợi, dẫn đến năng suất thấp.

3. Xử lý nguyên liệu (chế biến compost- cơ chất) trồng nấm mỡ:

3.1. Công thức phối trộn nguyên liệu:
Công thức 1:
- Rơm rạ khô:    1.000kg.
- Đạm Urea:    5kg.
- Đạm sulfat amon (SA):20kg.
- Bột nhẹ (CaCO3)    30kg.
- Super lân (P2O5):    30kg.
Công thức 2:
- Rơm rạ khô:    1.000kg.
- Đạm Urea:    3kg.
- Phân gà khô:    150kg.
- Bột nhẹ (CaCO3)    30kg.
- Ở nước ta phần lớn lao động thủ công nên khi sử dụng công thức 2 phải chú ý vấn đề vệ sinh lao động.
- Có thể tăng, giảm lượng nguyên liệu chính là rơm rạ và các chất phụ gia điều chỉnh theo tỷ lệ của công thức nhưng đống ủ phải tối thiểu có từ 500kg rơm rạ mới đảm bảo quá trình lên men sinh nhiệt hữu hiệu.

3.2. Quy trình công nghệ xử lý nguyên liệu:
* Cách làm ướt rơm rạ:
- Rơm rạ khô được làm ướt trong nước vôi (theo tỷ lệ 1 tấn rơm rạ cần 10kg vôi đã tôi) bằng các cách sau:
+ Đổ nước vôi đã gạn trong vào bể khoảng 3,5 - 4kg vôi đã tôi cho 1m3 nước) ngâm rơm rạ chìm trong nước vôi 15 - 30 phút, vớt ra để ráo bớt nước rồi ủ đống.
+ Ngâm rơm rạ xuống ao hồ, kênh rạch,… vớt lên bờ cứ 1 lớp rơm rạ 20- 30cm lại tưới một lớp nước vôi (dùng ô doa tưới).
+ Rải rơm rạ ra sân bãi, phun nước trực tiếp bằng máy bơm hoặc ô doa trong nhiều giờ (kiểu mưa dầm) đến khi rơm rạ đủ ướt sẽ có màu nâu sẫm, lấy nước vôi tưới lên lượt cuối cùng và ủ đống.
+ Lợi dụng trời mưa, tung rơm rạ ra sân, tưới lại bằng nước vôi đợt cuối rồi ủ đống.
* Ủ đống và quá trình đảo ủ nguyên liệu:
- Khi rơm rạ đã được làm ướt theo các cách trên để róc nước hoàn toàn (12-24 giờ) bắt đầu chất đống ủ và tiến hành đảo ủ theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quá trình đảo ủ nguyên liệu rơm rạ (compost) và các công đoạn nuôi trồng nấm mỡ.
- Quá trình ủ đống, đảo nguyên liệu và bổ sung hoá chất được tiến hành cụ thể như sau:
+ Sàn đống ủ có kệ lót cách mặt đất 15 - 20cm. Đống ủ ban đầu có kích thước: Rộng 1,5 - 1,6m; cao 1,6 - 1,8m; chiều dài tuỳ theo lượng rơm rạ (1 tấn có chiều dài 4,5m) cứ 1,5m  có 1 cọc thông khí. Thể tích ban đầu của đống ủ là khoảng 13 - 14m3/ 1 tấn rơm rạ. Làm theo cách này ta không phải cân..
- Khi chất đống ủ trộn đều đạm Ure với đạm sulfat amon (SA) cứ 1 lớp rơm rạ cao 30cm thì rắc 1 lớp phân đạm cho đều làm sao khi đủ rơm thì vừa hết đạm.
- Các lần đảo rơm sau theo thời gian và thứ tự bổ sung hoá chất như sơ đồ trên và tuân thủ các nguyên tắc.
+ Đảo đều nguyên liệu từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, rũ tơi rơm khi đảo ủ.
+ Ngày đầu có thể nén chặt rơm rạ, các lần đảo tiếp sau, khi chất rơm tuyệt đối không được nén để tạo độ thông thoáng cho đống ủ lên men tốt.
+ Mỗi lần đảo đều kiểm tra độ ẩm và chỉnh độ ẩm của rơm thật chuẩn. Nếu thấy nguyên liệu khô (vắt chặt không có nước chảy ra tay) cần bổ sung thêm nước, nguyên liệu quá ướt (vắt rơm có nước chảy thành dòng) cần phơi lại, sau đó mới ủ đống. Thường phải bổ sung thêm nước từ lần đảo thứ 3 trở đi.
+ Trời gió mạnh hoặc quá lạnh cần che phủ xung quanh đống ủ để giữ nhiệt và giữ ẩm trong đống ủ.
+ Nếu trời mưa to, ủ đống ngoài trời cần tạo mái đống ủ có hình mui rùa hoặc che đậy ở nóc để tránh nước mưa thấm sâu vào trong đống ủ.
+ Nền (đáy) đống ủ phải thoát nước tốt.
+ Nhiệt độ đống ủ phải đạt 75 - 80oC trong khoảng từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 sau khi ủ đống.
+ Khi kết thúc quá trình ủ đống (giai đoạn lên men chính) 14 - 16 ngày, compost đạt tiêu chuẩn: độ ẩm 65 - 70%, pH= 7 - 7,5, rơm rạ có màu nâu hạt dẻ, còn nguyên hình sợi rơm, có mùi dễ chịu và không còn mùi khai của amoniac. Nắm chặt, nguyên liệu dính vào nhau như cục đất sét, khi gỡ ra không bị nát vụn.

3.3. Lên men phụ và vào luống:
* Lên men phụ: Sau thời gian ủ đống 14 ngày và tiến hành đảo nguyên liệu 4 lần gọi là giai đoạn lên men chính, vi sinh vật trong đống ủ vẫn tiếp tục hoạt động và sinh nhiệt, gây mùn hoá. Lúc này ta phải tạo đống ủ thấp bằng một nửa đống cũ để nhiệt độ đống ủ giảm xuống, đây gọi là giai đoạn lên men phụ kéo dài 5 - 7 ngày. Khi nhiệt độ giảm xuống khoảng 28 - 30oC ta tiến hành đưa compost vào luống.
* Vào luống: Rũ tơi composts để bay hết hơi nóng, chỉnh độ ảm thật chuẩn (cầm một nắm rơm bóp chặt có nước rỉ ra ở kẽ ngón tay), xếp rơm thành từng lớp đứng liên tiếp có độ dày 12- 14cm (lớp thứ nhất), có độ chặt tương đối, bề mặt bằng phẳng. Phủ tiếp lên lớp thứ nhất một lớp rơm rạ đã ủ dày 3-4cm, ấn chặt vừa phải, (lớp thứ hai) lớp này để cấy giống nấm cho dễ. Trung bình 1 tấn rơm rạ khô sau khi vào luống được diện tích từ 40- 45m2.
- Trong nhà hoặc lán trồng nấm phải được vệ sinh nền tường, mái trước khi vào luống.
- Nếu là nền gạch, nền xi măng không cần lót nilon cần tưới ướt nền trước khi vào luống. Nền đất và trên giàn giá cần lót nilon (loại tái sinh) có thể đục lỗ để thoát nước.
- Bố trí luống nấm phải để lối đi và thuận tiện cho việc chăm sóc, thu hái nấm.
- Dùng vật liệu bằng gỗ, nan tre làm gờ chắn luống nấm hoặc đơn giản là dùng bùn để trát vào gờ luống để định hình và giữ ẩm cho luống nấm.

3.4. Cấy giống nấm mỡ:
- Giống nấm mỡ đựng trong túi nilon hoặc chai, trọng lượng trung bình khoảng 0,5kg/ 1 túi. Trước khi cấy giống cần:
+ Kiểm tra nhiệt độ luống nấm giảm xuống 28°C trở xuống thì mới được cấy giống. Nếu mặt luống bị khô thì tưới nước (0,2- 0,3 lít/m2) trước khi cấy giống ít nhất từ 4 - 6giờ.
+ Kiểm tra thật kỹ xem giống có bị nhiễm bệnh không. Túi giống bị chua hoặc mốc xanh, đen phải bỏ.
- Xé bao nilon, dùng tay bẻ  tơi các hạt giống rắc  đều trên bề mặt. Lượng giống cho 1m2 khoảng 300 - 350 gam. Lấy tay hoặc cào sắt (cào 5 răng dài 5cm) giũ nhẹ để các hạt giống lọt xuống dưới lớp rơm rạ từ 3- 4cm (lớp thứ hai khi vào luống). Sau đó dùng 1 lớp compost dày 2cm rắc đều, dùng tay hoặc mảnh gỗ ấn nhẹ, lấp phẳng bề mặt luống nấm, đảm bảo cho hạt giống đều nằm chìm và tiếp xúc tốt  với compost trồng nấm. Nếu cẩn thận và làm ít có thể dùng giấy báo đậy kín bề mặt luống nấm. Để sau 3-4 ngày bắt đầu tưới nước trực tiếp trên mặt báo (Không để đọng nước trên mặt báo phủ) hoặc tưới nhẹ lên lớp rơm rạ bảo vệ giống để giữ ẩm. Sau 12-15 ngày kể từ lúc cấy giống thì phải phủ đất.

3.5. Đất phủ và cách phủ đất:
- Nấm mỡ bắt buộc phải có lớp đất phủ trên bề mặt luống mới có nấm mọc.
- Đất phủ có kết cấu viên, dạng đất thịt nhẹ giàu chất hữu cơ (thường lấy ở tầng canh tác lúa, rau màu) có pH= 7 - 7,5; kích thước từ 0,3 - 1,5cm.
* Cách làm và phủ đất:
- Dùng cuốc, xẻng đập nhỏ đất, lấy sàng có nan thưa lắc nhẹ loại bỏ đất bột, vụn. Phần còn lại bằng hạt ngô trở lên (kích thước 0,3- 1,5cm) là được, đem phơi khô.
- Lượng đất phủ dày 2,0- 2,5cm; cần khoảng 25- 30 kg đất/ 1m2 luống nấm.
- Trước khi phủ đất thu nhặt lớp giấy báo, kiểm tra sợi nấm mọc đều trên mặt luống và ăn sâu vào cơ chất có màu trắng bạc như tàn thuốc lá là đủ điều kiện phủ đất. Nếu mặt luống khô, tưới nhẹ cho ẩm đều. Đổ nhẹ đất viên trên mặt luống, dùng tay hoặc bàn gạt san đều đất dày 2,5-3cm.
- Sau khi phủ đất xong trong khoảng 3- 4 ngày tưới nước nhiều lần đủ ẩm toàn bộ lớp đất phủ (bẻ viên đất không còn lõi trắng). Các ngày tiếp theo giảm lượng nước tưới, duy trì độ ẩm liên tục như đất gieo hạt rau cho tới khi nấm mọc (sau khi phủ đất  15- 20 ngày có nấm mọc bói) .

3.6. Chăm sóc và thu hái nấm mỡ:
- Nấm mỡ mọc quả thể rất phụ thuộc vào thời tiết, nhiệt độ các đợt gió mùa đông bắc. Mùa đông trời rét đậm, rét dài thì nấm mọc liên tục.
- Khi thấy nấm bắt đầu xuất hiện (có các chấm nhỏ màu trắng như hạt ngô) điều chỉnh lượng nước tưới theo mật độ và độ lớn cây nấm. Nấm ra càng nhiều, càng lớn thì lượng nước tưới cũng nhiều hơn. Tuỳ thuộc vào thời gian và thời tiết (nhiệt độ trong ngày, độ ẩm, tốc độ gió) để điều chỉnh hệ thống cửa ra vào và lượng nước tưới. Khi tưới phải tưới  ngửa vòi hoặc cao vòi cách mặt luống (40- 50cm) để không bị nát đất và ẩm đều, tưới đi tưới lại 2, 3 lần làm sao chỉ ẩm đất, không có nước thấm nhiều xuống lớp giá thể. Giai đoạn chăm sóc, thu hái cần chú ý:
* Thông thoáng:
- Thời kỳ nuôi sợi không cần nhiều O2 tự nhiên nên chỉ cần thông khí vừa phải. ngày mở cửa 2 lần, mỗi lần 15- 20 phút.
- Thời kỳ nấm mọc sử dụng nhiều O2 tự nhiên, nồng độ CO2 trong phòng trồng nấm lên cao. Tăng cường mở cửa nhiều lần trong ngày để điều hoà không khí.
- Khi nhiệt độ không khí thấp hơn nhiệt độ trong phòng cần thông thoáng để nhiệt độ phòng giảm xuống nhanh hơn. Khi nhiệt độ trong phòng tăng cao, thông thoáng kém thì nấm phát triển nhanh, cuống dài và nhỏ, mũ bé và nhanh nở xoè ô.
- Tưới nước không đủ (quá khô) nấm không lên khỏi mặt đất, cuống rất ngắn “gốc” phình to dạng củ, mũ lớn hơn bình thường, mọc lác đác.
- Độ ẩm không khí quá cao (độ ẩm bão hoà 100%) kéo dài liên tục nhiều ngày thì trong quả nấm có những vết đen, vi sinh vật và sâu bệnh xuất hiện nhiều.
- Lượng O2 không đủ nấm có dạng mũ bé, cuống to.
- Trao đổi không khí quá mạnh (gió lùa nhiều) nấm có màu vàng, mũ xuất hiện vảy.
* Hái nấm:
- Hái nấm trước khi nấm rách màng bao, đường kính mũ nấm từ 2,0-6,0cm, thích hợp cho việc bán tươi và chế biến.
- Dùng tay nhẹ nhàng xoáy quả nấm, lấy hết phần gốc và cuống nấm, dùng dao cắt ngang cuống nấm dài 0,5- 1cm. Nếu nấm mọc thành cụm thì nên hái cả cụm, tránh hái tỉa.
- Dừng tưới nước trước khi  hái từ 4- 5giờ để nấm không bị bẩn. Sau khi hái xong cần phải nhặt bỏ các gốc, “rễ già”, nấm nhỏ bị chết, bổ sung thêm đất phủ vào những nơi bị hao hụt do thu hái. Sau đó tưới nước như bình thường.
- Quá trình thu hái, chăm sóc kéo dài khoảng 2,0- 2,5 tháng thì kết thúc, nếu trời hết lạnh hoặc cơ chất hết dinh dưỡng thì hết nấm.

Những điều cần biết về Nấm ăn

Những điều cần biết về Nấm ăn

Trong các vi sinh vật có ích được lợi dụng nhiều nhất, gần gũi với con người nhất phải kể đến nấm (Fungi). Nấm là một loài sinh vật nhân thật không có chất diệp lục, dị dưỡng. Trong hệ thống phân loại gần đây sinh vật được xếp thành 5 giới, nấm được xếp vào giới thứ 3, ngang với thực vật và động vật.


Tuyệt đại bộ phận nấm được cấu tạo bởi các sợi nấm (hyphae). Sợi nấm có dạng ống, chứa đầy tế bào chất và dịch bào. Sợi nấm có 2 loại, một loại không có vách ngăn, nhiều nhân, một loại có vách ngăn, trên màng vách ngăn có lỗ thông để truyền thông tin và trao đổi chất. Phần lớn chúng có vách tế bào. Vách tế bào của một số nấm bậc thấp có thành phần chủ yếu là xenluloza, của nấm bậc cao lại chứa kitin. Có loài nấm chứa cả hai loại. Thành phần vách tế bào rất phức tạp, chúng có thể khác nhau tùy theo loại nấm, giai đoạn phát triển và điều kiện môi trường. Vách tế bào của một số loài nấm chứa rất nhiều chất trao đổi, làm cho sợi nấm có các màu sắc khác nhau tạo nên thể nấm hoặc quần thể nấm có các màu sắc khác nhau. Sợi nấm có đặc điểm sinh trưởng về phía ngọn, phân nhánh. Sợi nấm trong nhiều năm có thể tiếp xúc với nhau hình thành một khối gọi là thể sợi nấm (mycelium). Thể sợi nấm có thể do phân nhánh mà hình thành kết cấu dạng lưới mắt thường có thể thấy được gọi là bó nấm hình rễ (rhizomorphs), hoặc thành hạch nấm (selerotium) hoặc về sau phát dục thành cơ quan chứa bào tử gọi là thể quả (fruit body). Thể quả có nhiều dạng khác nhau: dạng tán, dạng cục, dạng nhiều lỗ dạng cổ ngựa… Tất cả kết cấu đó cũng giống như thể sợi nấm có thể tồn tại tạm thời hoặc lâu dài và những sợi nấm cấu tạo nên chúng có thể biểu hiện sự khác nhau ở mức độ phân hóa về kết cấu và chức năng.

Sự tích lũy các hợp chất trong thể sợi nấm và các chất trao đổi trong các loài nấm rất khác nhau thể hiện tính đa dạng các loài nấm, nhưng sản phẩm tích lũy ban đầu là sản phẩm phân giải hợp chất cacbon, chủ yếu có các axit hữu cơ và các chất khác, đặc biệt là các chất ethanol với axit citric, axit omithuric, axit fumaric. Đường glucoza lên men thành bã rượu là đặc tính sinh học chung của nhiều loài nấm và nấm men. Loại sản phẩm thứ hai là vật trao đổi sơ cấp, chúng phân bố rất rộng có tác dụng duy trì sinh trưởng và kết cấu tế bào. Những chất này có được là do tổng hợp các chất là sản phẩm trao đổi trong quá trình phân giải hợp chất cacbon như các axit amin và protein, axit lipoic, polysacharit. Loại sản phẩm thứ ba là vật trao đổi thứ cấp được sản sinh từ vật trao đổi sơ cấp bằng các con đường khác nhau, chúng chỉ có một số chất như carotenoid, sterol, gibberelin, biotin, chất kháng sinh và chất độc của nấm. Ba loại sản phẩm trên khác nhau về hàm lượng và chủng loại tuỳ theo các loài nấm, môi trường sinh trưởng và thời kỳ phát triển khác nhau.

Nấm ăn là một loại nấm có thể quả lớn cung cấp nguồn thực phẩm cho con người, được nhân dân ta sử dụng từ lâu. Trong thiên nhiên có hàng trăm loài, nhưng sản xuất nấm ăn theo quy trình công nghiệp mới chỉ có 20 loài.

Hầu hết chúng thuộc ngành phụ nấm đảm và một phần thuộc ngành phụ nấm túi. Chúng thường mọc trên cây khô, cây đổ, gốc chặt, trên mặt đất, lùm cỏ, lá cành mục. Có loài mọc đơn lẻ, có loài mọc thành cụm, thành đám. Có loài mọc trên thân cây, có loài sống cộng sinh với rễ cây, có loài mọc trên đất thành từng đám lớn. Đặc biệt là vào mùa hè thu chúng có nhiều đặc trưng hình dạng, màu sắc kích thước khác nhau và tạo nên tính đa dạng của nấm.

Giá trị dinh dưỡng của nấm ăn

Giá trị dinh dưỡng của nấm ăn

Nấm ăn không chỉ ăn ngon mà dinh dưỡng rất phong phú, hàm lượng protein cao hơn bất cứ một loại rau nào

Ngoài ra còn có các chất đường, lipit, chất khoáng, vitamin và các axit amin, trong đó protein và axit amin là những chất cần thiết cho con người. Theo phân tích nấm ăn của nhiều nhà nấm học, trong nấm mỡ có 17 axit amin, nấm hương có 18 axit amin mà trong các loài rau không thể có được. Hàm lượng protein trong nấm chiếm 30-50% (trọng lượng khô hoặc 3-5% trọng lượng tươi), gấp 2 lần rau cải, 4 lần quýt, 12 lần táo.

Nấm ăn có nhiều loại vitamin. Nấm mỡ có 8 loại, trong đó vitamin c và pp khá cao; trong nấm hương hàm lượng vitamin D có 40 ngàn đơn vị trong 100g; nấm mối và nấm vòng mật có nhiều vitamin A. Chúng đều rất cần thiết cho cuộc sống con người.

Trong nấm ăn tổng lượng lipit thấp hơn thịt gà, thịt lợn và bia; axit lipoic không bão hoà chiếm 74-83%. Cho nên nấm ăn là một loại thức ăn làm giảm béo.

Những thực phẩm có lượng protein cao, nhiều loại vitamin, lipit thấp như nấm là thức ăn lý tưởng cho con người.

Ngoài việc cung cấp thực phẩm, một số loài còn có giá trị làm thuốc chữa bệnh. Nấm hương ăn ngon còn có tác dụng bổ huyết, trừ phong, chữa đậu mùa trẻ em, mẩn ngứa…những nghiên cứu gần đây cho thấy nấm hương chứa vitamin pp chữa bệnh sùi da, tăng sức đề kháng cho cơ thể, chữa huyết áp cao, giảm cholesterol. Nhiều loài nấm chứa polysacharit nâng cao khả năng ức chế u bướu; một số loài còn có khả năng phòng chống bệnh ung thư.
Thông tin liên hệ:

Website: http://Caygiong.org
Điện thoại: 0986 266 563 – 024 668 07 969
Blog: https://caygiongdhnn1.blogspot.com
Theo GS.TS Trần Văn Mão