Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2018

Muốn vú sữa cho trái sớm

Muốn vú sữa cho trái sớm

Thực tế cho thấy vú sữa đầu mùa bán được giá rất cao, vì thế nhiều chủ vườn đã tìm cách điều khiển cho cây vú sữa ra trái sớm hơn bình thường khoảng 1,5-2 tháng để thu được lợi nhuận cao. Nhưng không phải ai cũng thành công.

Trong điều kiện bình thường cây vú sữa thường cho thu hoạch trái từ rằm tháng chạp cho đến hết tháng giêng, do đây là chính vụ nên giá bán rất rẻ.

Thực tế cho thấy vú sữa đầu mùa bán được giá rất cao (có năm gấp cả chục lần so với chính vụ), vì thế nhiều chủ vườn đã tìm cách điều khiển cho cây vú sữa ra trái sớm hơn bình thường khoảng 1,5-2 tháng để thu được lợi nhuận cao. Nhưng không phải ai cũng thành công.

Sau đây xin giới thiệu với bà con kinh nghiệm của chú Sáu Mừng một nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh ở xã Vĩnh Kim, Châu Thành (Tiền Giang), chủ của một mảnh vườn rộng 4.000m2 chuyên canh cây vú sữa Lò Rèn từ nhiều năm nay. Cách làm của chú như sau:

Vào cuối tháng giêng âm lịch sau khi thu hoạch hết đợt trái cuối cùng thì bón phân cho cây với liều lượng cứ mỗi công vườn (1.000m2) thì dùng 1/4 bao urea trộn đều với 1/4 bao NPK con cò xanh (loại 20-20-0) và 1/4 bao phân bón đầu trâu AT 1. Rải xong tưới nước cho phân tan ngấm dần xuống đất rồi nung nước liên tục trong vòng 3 tuần liền, bằng cách cứ 4 ngày một lần bơm nước cho ngập hết mương, hết liếp cây, sau đó để cho nước tự rút cạn.

Sau khi bón phân khoảng 3 tuần cây vú sữa sẽ ra tược mới và sau đó sẽ ra bông. Khi cây bắt đầu ra tược mới bón thêm đợt phân thứ 2 (lượng phân và cách bón của đợt này giống như ở đợt bón đầu). Khi trái lớn cỡ trái chanh bón tiếp cho mỗi công vườn 10 kg phân NPK (loại 16-16-8). Khi trái lớn cỡ nắm tay thì bón thêm cho mỗi công 10 kg phân Calcium Nitrate để phòng ngừa thối trái.

Làm cách này khoảng rằm tháng tư cây sẽ ra bông và cho thu hoạch trái vào khoảng rằm tháng mười âm lịch. Vụ sớm tuy năng suất không cao bằng chính vụ, nhưng do bán được giá cao nên thu nhập vẫn cao gấp 4-5 lần chính vụ.

Chú cho biết thêm vú sữa thường bị rệp sáp gây hại khi cây ra tược non, lá non và sâu đục trái gây hại khi trái lớn cỡ trái chanh trở đi, vì thế vào những giai đoạn này cần kiểm tra vườn thường xuyên để kịp thời phát hiện và phun thuốc diệt trừ rệp, sâu kịp thời.

Tác dụng giảm cân từ quả vú sữa

Tác dụng giảm cân từ quả vú sữa

Người ta thường nghĩ vị ngọt của vú sữa sẽ khiến người mập hơn, nhưng không phải vậy, vú sữa có chứa nhiều nước và hàm lượng chất xơ cũng khá cao sẽ giúp cho người sử dụng cảm giác no bụng, chán những thực phẩm khác.



Vú sữa (Chrysophyllum cainito) là loại cây lưỡng tính (tự thụ phấn), có thể cao từ 6-30m, có tán lá dày và khỏe, thuộc họ Sapotaceae. Vú sữa có nguồn gốc ở các vùng đất thấp của Mexico, Trung Mỹ và quần đảo Caribe. Ở nước ta, vú sữa được trồng từ rất lâu với nhiều giống khác nhau, trong đó vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim, Tiền Giang được coi là giống nổi tiếng nhất.

Thành phần dinh dưỡng trong một quả vú sữa rất cao gồm: Canxi 14,65mg, phốt pho 73,23mg, kali 67,2mg, magiê 3,3mg, sắt 2,33mg, nước 73,23mg, protein 2,33mg, chất xơ 3,3mg, năng lượng 67,2mg, carbonhydrate 14,65mg, vitamin C 14,5mg… Trong đó còn chứa nhiều vitamin A, B1, B2, B3, nhất là gluxit, canxi, dầu axit malic, thành phần hóa học có tác dụng phòng chữa bệnh sạm da, kháng khuẩn…

1. Tốt cho phụ nữ mang thai

Lượng canxi, phốt pho, sắt và magiê dồi dào có trong vú sữa là thành phần quan trọng giúp thai phụ và thai nhi phát triển. Ngoài ăn uống, bổ sung vi chất trên khi mang thai, các bà mẹ nên ăn khoảng 100 – 200g quả vú sữa hằng ngày để bổ sung  những vi chất cần thiết này giúp phòng tránh hiện tượng thiếu máu, còi xương cho trẻ nhỏ.

2 Giúp giảm cân

Người ta thường nghĩ vị ngọt của vú sữa sẽ khiến người mập hơn, nhưng không phải vậy, vú sữa có chứa nhiều nước và hàm lượng chất xơ cũng khá cao sẽ giúp cho người sử dụng cảm giác no bụng, chán những thực phẩm khác. Thích hợp với người không muốn tăng cân.

3. Cung cấp lượng gluxit cho cơ thể

Nhu cầu năng lượng từ gluxit nên chiếm 60% tổng năng lượng. Nếu thiếu thành phần này, sẽ gây trở ngại đến hoạt động của tế bào thần kinh . Vì vậy, bổ sung gluxit từ thực phẩm, hoa quả là cần thiết để tốt cho cơ thể và sự co bóp, hoạt động của nhu động ruột.

4. Khỏe xương

Lượng calcium có trong vú sữa có thể đáp ứng 10% nhu cầu canxi trung bình một ngày của một người bình thường. Nó không chỉ giúp cho xương chắc khoẻ mà còn ngăn ngừa lượng mỡ thừa trong cơ thể.

Kỹ thuật nhân giống cây vú sữa

Kỹ thuật nhân giống cây vú sữa

Cách nhân giống này phải chọn nhánh có đường kính lớn và cần khoảng 6 tháng nhánh mới cho ra rễ


Ở Việt Nam vú sữa được trồng đầu tiên ở Miền Nam, sau đó lan dần ra Bắc. Tuy nhiên, ở phía Bắc vú sữa không được trồng phổ biến vì:

A. Giới thiệu

Cây vú sữa có tên khoa học là Chrysophyllum cainito (tên tiếng Anh: Star apple, tiếng Pháp: Cainitier) thuộc họ hồng xiêm (Sapotaceae) đã được trồng ở Nam Mỹ, Mêhico, Florida và nhập nội vào Sri Lanka, Ấn Độ, Philippines, Thái Lan.

Ở Việt Nam vú sữa được trồng đầu tiên ở Miền Nam, sau đó lan dần ra Bắc. Tuy nhiên, ở phía Bắc vú sữa không được trồng phổ biến vì:

- Sản lượng trái thấp,

- Chất lượng trái không được đánh giá cao,

- Cây chậm cho trái, cây cao, khó thu hoạch.

Có nhiều giống vú sữa được người nông dân chọn trồng như vú sữa nâu, vú sữa nâu bách thảo, vú sữa bánh xe, vú sữa dây,… nhưng được ưa chuộng nhất là giống vú sữa Lò rèn Vĩnh Kim. Giống vú sữa này khi trái chín có hình cầu, phía đuôi trái màu trắng má hồng, thịt trái có màu trắng sữa, vị ngon ngọt.

B. Kỹ thuật nhân giống


I/.Nhân giống hữu tính:

Trước đây, người ta nhân giống bằng hạt . Thông thường sau khi gieo hạt 3 - 4 tuần thì cây mọc, người trồng bứng đem đến nơi đã đào lỗ, bón lót phân sẵn và trồng vào đó. Phương pháp này hiện nay không còn phổ biến vì cây trồng bằng hạt thường bị biến dị nên không giữ được đặc tính ban đầu của cây mẹ: dạng trái, màu sắc trái…, sau khi trồng phải đến 7 - 9 năm mới cho trái.

Hiện nay việc gieo ươm hạt vú sữa chủ yếu để sản xuất cây gốc ghép.

II/. Nhân giống vô tính bằng cách chiết nhánh

Cách nhân giống này phải chọn nhánh có đường kính lớn và cần khoảng 6 tháng nhánh mới cho ra rễ, vì thế tỷ lệ nhân giống không cao và tỷ lệ thành công thấp.

Cây trồng bằng nhánh chiết, rễ không ăn sâu nên cây dễ bị giông gió làm đổ ngã, lật gốc.

Tuy nhiên, cây trồng bằng nhánh chiết có những ưu điểm:

- Mau cho trái: thông thường sau 3 năm trồng cây chiết đã cho trái nếu được chăm sóc, bón phân, tưới nước đầy đủ.

- Chất lượng trái, hình dạng trái giữ được đặc tính của cây mẹ.

Xem tiếp

Phòng trừ sâu bệnh hại trên cây vú sữa

Phòng trừ sâu bệnh hại trên cây vú sữa

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao

I. Các loại sâu hại chính

1. Sâu đục trái (Alophia sp.- pyralidae):

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao.

Phòng trị: Sau thu hoạch, tỉa bỏ cành sâu bệnh, cành gãy…giúp vườn cây thông thoáng. Thu gom và tiêu hủy trái bị hại để sâu non không hóa nhộng và gây hại ở lứa tiếp theo. Phun thuốc khi thấy có sâu non xuất hiện bằng các loại thuốc như: Basudin 50ND, Sumi Alpha 5EC, Karate 2,5EC, Cypermap 10EC… liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

2. Sâu ăn bông (Eutalodes anithivora – Gelechiidae):

Gây hại từ khi bông bắt đầu nhú ra đến khi hoa trỗ nhụy, sâu non đục vào bên trong làm bông bị hư.

Phòng trị: khi phát hiện có sâu hại, phun các loại thuốc có tác dụng lưu dẫn như: Cyber Alpha 50ND, liều lượng theo hướng dẫn trên chai thuốc.

3. Sâu đục cành (Pachyteria  equestris - Coleoptera):


Gây hại quanh năm. Con trưởng thành đẻ trứng lên đọt non, sâu non nở ra ăn lòn vào trong cắn phá cành, làm chết cành.

Phòng trị: Thường xuyên thăm vườn, nếu thấy có mọt đổ từ các cành thì dùng que xoi vào lỗ đục và bắt bằng tay hoặc bơm thuốc trừ sâu có tính lưu dẫnvào các lỗ đục, sau đó trám lỗ đục lại bằng đất sét hoặc sáp.

4. Rệp sáp (Pseudococcus sp.):


Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên vú sữa. Rệp chích hút lên lá, lên trái…. rệp tấn công từ khi trái còn nhỏ đến khi thu hoạch làm cho trái không phát triển. Ngoài ra, rệp tiết ra mật ngọt, tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, làm mất phẩm chất trái.

Phòng trị: tỉa bỏ những lá, trái bị nhiễm nặng, dùng máy bơm phun nước lên những chỗ có rệp sáp để rửa trôi rệp. Phun thuốc khi mật số rệp cao. Có thể bổ sung dầu khoáng DC- Tronplus 0.5% để tăng hiệu lực của thuốc.

II. Các loại bệnh hại chính

1. Bệnh thối trái (Do nấm Colletotrichum sp.):

Nấm bệnh tấn công trái từ khi trái còn non đến khi thu hoạch. Ban đầu trên trái có những đốm nhỏ hình tròn màu nâu hoặc nâu đen, sau đó vết bệnh lan rộng ra và các vết bệnh nối tiếp nhau bao phủ cả trái. Trái bệnh thường bị chai sượng và rụng.

Ngoài ra, nấm Lasiodiplodia theobromae cũng làm cho trái bị thối khi thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ. Với vết bệnh ban đầu nơi gần cuống trái do thu hoạch không chừa cuống hoặc vỏ trái bị trầy xướt, sau đó vết bệnh lan dần làm hư thối cả trái.

Phòng trị:
Vệ sinh vườn, tỉa bỏ và thu gom những trái bị bệnh lại để tiêu hủy. Không nên trồng quá dày, tỉa bỏ cành vô hiệu để giúp vườn thông thoáng, hạn chế nấm bệnh phát triển.

Khi thu hoạch tránh gây bầm giập, trầy xướt trái, không làm rụng cuống trái để giúp vườn thông thoáng, hạn chế sự xâm nhập của nấm bệnh. Cần theo dõi thường xuyên nếu thấy bệnh phát triển nhiều thì phun các loại thuốc như Antracol 70WP, Benlate 50WP, Manzate 80WP, Daconil 75WP, Carben 50SC, Thio – M 70WP…Ngoài ra, xử lý trái bằng nước nóng ở 52o C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.

2. Bệnh bồ hóng (Do nấm Capnodium sp.):

Nấm bệnh tạo thành từng mảng đen như bồ hóng bám trên mặt lá, trên trái làm giảm quang hợp của lá, làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Bồ hóng bám trên trái làm mã trái xấu bán không được giá. Nấm bệnh phát triển trên các vườn vú sữa có rầy mềm, rệp sáp, rệp dính…vì chất thải của rầy, rệp giúp nấm phát triển. Bệnh thường phát triển mạnh trong mùa nắng.

Phòng trị: Không trồng quá dày. Tỉa cành tạo tán hợp lý để vườn cây thông thoáng. Mùa nắng, chú ý phòng trị rệp sáp, rầy mềm, rệp dính, bằng các loại thuốc như Supracide 40EC, Trebon 10EC, Actara…Khi thấy có nấm bồ hóng: phun các loại thuốc có gốc đồng như Coc 85, Copper Zine, Copper B…

Xem tiếp

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2018

Kỹ thuật trồng cây vú sữa

Kỹ thuật trồng cây vú sữa

Rễ vú sữa thường ăn nông, nhiệt độ của đất cao vào mùa nắng sẽ ảnh hưởng đến bộ rễ, do đó cần phải tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, cỏ khô để giữ ẩm cho đất

 A . GIAI ĐOẠN MỚI TRỒNG ĐẾN 3 NĂM TUỔI

1. Thời vụ trồng:
Nếu chủ động nước tưới có thể trồng bất cứ thời điểm nào trong năm; tuy nhiên trồng vào mùa mưa sẽ ít tốn công tưới.

2. Chuẩn bị đất trồng:
- Thiết kế vườn:
+ Vẽ sơ đồ vườn theo mương, liếp để quản lý, chăm sóc, ghi chép nhật ký canh tác.
+ Đào mương, lên liếp: nếu trồng mới trên đất ruộng nên đào mương sâu 1 – 1,5 m, bề mặt liếp rộng 7 – 10 m.
+ Bố trí hệ thống đê bao, cống bọng để tưới – tiêu chủ động.
+ Trồng cây chắn gió: chú ý trồng cây chắn gió vì cây vú sữa dễ bị lật gốc, tét nhánh vì vậy cần phải trồng cây chắn gió; đặc biệt là những vườn ở ven sông lớn. Hàng cây chắn gió phải thẳng góc với hướng gió thường thổi tới. Hàng cây chắn gió còn giúp giữ độ ẩm cho vườn, cây quang hợp tốt (do lượng CO2 ổn định hơn), tránh được đổ ngã khi có gió lớn, cây thụ phấn và đậu quả cũng tốt hơn.
- Chuẩn bị đất để lên mô trồng: chọn đất mặt ruộng, đất bùn ao, đất vườn cũ, xử lý khoảng 1 – 1,5 kg vôi/mô, phơi 15 – 30 ngày trước khi trồng.
- Chất mô: theo sơ đồ đã thiết kế, đường kính mô từ 0,8 – 1m, cao 0,4 – 0,7m.
- Trộn phân hữu cơ đã hoai mục với Trichoderma để tăng vi sinh vật đối kháng trong đất khống chế nấm bệnh. Có thể dùng chế phẩm EM để thúc đẩy phân mau hoai và cung cấp thêm vi sinh vật hữu ích cho cây trồng.
- Bón phân lót: mỗi mô bón 10–15kg phân hữu cơ hoai (đã ủ ở phần trên), 0,3kg super lân, 0,1kg DAP .

3. Cách trồng:

a. Mật độ (khoảng cách): Tùy theo chiều rộng mặt liếp mà bố trí số hàng cây. Với liếp rộng 7 - 8m thì bố trí trồng một hàng cây ở giữa liếp, khoảng cách 8m/cây, mật độ 12 - 13 cây /1000m2. Với liếp rộng 9 - 10m, trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Có thể trồng xen rau màu hoặc cây ăn trái ngắn ngày trong 1 - 3 năm đầu để tăng thu nhập.

b. Cách đặt cây: Khoét lỗ trên mô vừa với bầu cây con (khoảng 20 – 25 cm), cắt bớt gốc cành ghép (treo bầu), xé bỏ bao nilon (đựng bầu đất), đặt cây con vào hố, dùng dao cạo nhẹ lớp vỏ nơi tiếp xúc giữa cành ghép và gốc ghép lấp đất đến nơi vừa cạo vỏ giúp hình thành 1 lớp rễ mới sau khoảng vài tháng trồng; ém đất chặt, dùng 3 cây cọc để cố định cây con, chú ý che nắng cho cây.

4. Chăm sóc:
- Dùng rơm tủ gốc để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại.
- Làm cỏ để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng, nên cắt bớt cỏ trong vườn, hạn chế dùng thuốc diệt cỏ trong vườn cây ăn trái.
- Tưới nước: cần cung cấp nước đầy đủ cho cây vú sữa, mỗi tuần tưới 3 - 5 lần, mỗi lần tưới 20 - 30 lít nước/cây nhất là vào mùa nắng để giảm tỷ lệ cây chết và giúp cây phát triển nhanh đặc biệt trong 3 năm đầu. Nên giữ mực nước trong mương cách mặt liếp ít nhất 40 cm.
- Bón phân:
+ Sau khi trồng đến một năm: sử dụng 70–80ml Greenfield 555 tưới gốc + 20g Urê, hoà phân vào nước để tưới, mỗi tháng nên bón phân 1 lần
+ Cây 1 – 3 năm tuổi: bón 1–2 kg hỗn hợp gồm Urê, Greenfield 555, NPK 16–16–8 (hoặc 20 – 20 – 15), với tỉ lệ 1:3:1; chia làm 4 lần bón trong năm, lượng phân bón tăng dần theo độ lớn của cây (năm đầu dùng 1kg phân, sau đó tăng dần)
- Tỉa cành tạo tán: trong các năm đầu nên tỉa cành để cây vú sữa có cành phân bố theo 4 hướng, tạo cho cây có tán tròn đều. Chú ý tỉa bỏ cành vượt, cành trong tán cây, cành bị sâu bệnh

B . GIAI ĐOẠN CÂY TỪ 3 NĂM TUỔI TRỞ LÊN

1. Tủ gốc giữ ẩm:
Rễ vú sữa thường ăn nông, nhiệt độ của đất cao vào mùa nắng sẽ ảnh hưởng đến bộ rễ, do đó cần phải tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, cỏ khô để giữ ẩm cho đất. Nên tủ cách gốc để tránh sâu bệnh tấn công.

2. Làm cỏ và trồng xen:
Nên làm cỏ thường xuyên trong các năm đầu để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng và loại bỏ nơi trú ẩn của sâu bệnh. Đến năm thứ tư trở đi tán cây rộng dần và công làm cỏ sẽ giảm. Để giảm bớt công làm cỏ và tưới nước, trong các năm đầu nên dùng rơm rạ phủ gốc và trồng xen một số cây ngắn ngày khác để tăng nguồn thu nhập.

3. Bồi bùn:
Hàng năm cần bồi bùn vào mô trồng, nên phơi khô bùn sau khi vét mương rồi sau đó bồi vào mô. Công tác bồi bùn cần tiến hành thường xuyên hàng năm, ngay cả khi cây đã lớn và sau khi định hình mương liếp hoàn chỉnh. Việc vét mương bồi liếp vừa có tác dụng cải tạo hệ thống mương tưới tiêu, nâng cao dần mặt liếp, vừa có tác dụng cung cấp một phần dinh dưỡng cho cây vú sữa.

4. Tưới tiêu:
Để cây vú sữa phát triển nhanh hơn, cần phải tưới nước đầy đủ nhất là trong những năm đầu. Nếu vườn cây vú sữa chưa có hệ thống đê bao ngăn lũ thì phải bố trí hệ thống thoát nước tốt vì cây vú sữa không chịu được ngập úng.
Giai đoạn cây ra hoa và mang trái tưới nước thường xuyên 2–3 ngày/ lần giúp cây ra hoa, đậu trái tốt hơn.

5. Tỉa cành, tạo tán:
Hàng năm, sau khi thu hoạch, phải vệ sinh vườn bằng cách tỉa bỏ những cành mọc đứng trong tán, cành gãy, cành sâu bệnh, cành khô, già cổi, cành phụ ốm yếu mọc liên tiếp trên cùng một cành chính, cành mọc gần mặt đất; tỉa thấp lại cành chính khống chế chiều cao của cây không quá 4–4,5m để tiện chăm sóc, thu hoạch sau này.

Đối với cây quá già cổi: cây cho lá nhỏ, trái nhỏ, chậm ra nhánh mới; để trẻ hóa vườn cây vú sữa này cần cưa bỏ từ 30–60% số cành để cây phát triển cành mới, số cành mới phát triển sẽ cho trái lớn hơn, tốt hơn vào các vụ sau.
Sau mỗi vụ thu hoạch nên cưa bỏ 1–2 cành vươn cao, ít lá và có biểu hiện sinh trưởng, năng suất kém nhất trên tán cây. Cưa ngắn các cành này còn 30–50 cm tính từ gốc cành. Vết cưa nghiêng 45 độ để tránh đọng nước. Sơn phủ bề mặt vết cưa bằng dung dịch sun-phát đồng. Khoảng 15 - 20 ngày sau dưới mỗi vết cưa sẽ phát triển 5 - 15 chồi mới, nên tỉa bớt số chồi mới chỉ giữ lại 2 - 3 chồi khỏe và ở vị trí đều quanh cành. Khi chồi mới phát triển đến chiều dài 50 - 60cm thì tiến hành loại bỏ đỉnh sinh trưởng để kích thích chồi phân cành.

* Lưu ý quan sát và phòng trừ sâu hại cho cành mới, cành này có khả năng cho trái sau 12 - 18 tháng.

6. Bón phân:
Từ năm thứ tư sau khi trồng, cây vú sữa bắt đầu cho trái; vì vậy lượng phân bón cho cây cũng tăng dần lên để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây. Bón 2 – 3 kg hỗn hợp gồm Urê, DAP, NPK 16 – 16 – 8 (hoặc 20 – 20 – 15), với tỉ lệ 1:1:1; chia làm 4 lần bón trong năm bón vào lúc cây ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu hoạch 1 – 2 tháng. Lượng phân bón trên áp dụng cho cây 4 – 5 năm tuổi.

Cây vú sữa từ năm thứ 5 sau khi trồng, bước sang giai đoạn cho trái ổn định, và cũng là bắt đầu giai đoạn kinh doanh. Nên bón 4 lần phân vào các giai đoạn: sau khi thu hoạch làm gốc để cây chuẩn bị ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu hoạch 1 - 2 tháng. Liều lượng phân bón thay đổi, tăng dần theo tuổi cây từ 6 năm đến trên 20 năm (lúc đầu bón số lượng nhỏ, tăng dần theo từng năm). Mức phân đề nghị cho cây 5 năm tuổi như sau :

· Lần 1: Bón vào giai đoạn xử lý ra hoa sớm với 5–10 kg phân hữu cơ hoai/cây và 3 – 6 kg gồm NPK (20 - 20 - 15 hoặc 16 - 16 - 8), Urê và phân lân theo tỉ lệ 1/1/1.
· Lần 2: Bón vào giai đoạn đậu trái lúc trái bằng nút áo với lượng 2 – 4 kg phân/cây gồm Urê và DAP theo tỉ lệ 2/1.
· Lần 3: Bón vào giai đoạn nuôi trái, lúc trái có đường kính khoảng 2cm, với 2 – 3 kg phân NPK/cây (dạng phân như nói trên).
· Lần 4: Bón vào giai đoạn trước thu hoạch 1 – 2 tháng với liều lượng 1 – 2 kg phân NPK/cây.
Các lần bón phân cách nhau từ 2,5 – 3 tháng.
Phương pháp bón: Trước khi bón phân nên tiến hành thu dọn toàn bộ vật liệu tủ gốc rồi bón lên mặt liếp (mô) hoặc xới rảnh sâu 5-10 cm ở 2/3 đường kính tán cây, bón phân vào rãnh. Sau khi bón phân nên che phủ gốc bằng các vật liệu hữu cơ và tưới nước liên tục 5-7 ngày cho phân tan vào đất.

7. Phòng trừ sâu bệnh:
Sâu bệnh hại vú sữa thì có nhiều loại, nhưng ở giai đoạn nuôi trái lớn như bạn yêu cầu thì nên chú ý những đối tượng chính dưới đây:
- Sâu đục trái (Alopia sp.) phá hại từ khi trái còn nhỏ cho đến khi đã già và chín, có thể làm rụng hoặc hư cả trái, giảm phẩm chất trái. Khi mới thấy một vài trái non bị hại thì phun ngay, phun 2-3 lần cách nhau 7-10 ngày/lần bằng các loại thuốc Tiper 25EC, Tizonon 50EC, SauAba 3.6EC, Newgreen 2.0EC, Vibasu, Sagolex, Oncol, Netoxin, Lorsban…

- Bệnh thối trái do nấm Lasio diplodia Theobromac và Colletotrichum sp. xâm nhập từ khi trái còn nhỏ gây ra. Vết bệnh lúc đầu chỉ là một đốm nhỏ màu đen, gặp thời tiết ẩm bệnh phát triển mạnh, lây lan nhanh khắp trái, làm trái khô đen và rụng, tỷ lệ trái hư khá cao, đôi khi lên tới 20-25%. Phòng trừ bằng cách vệ sinh vườn cho thoáng, tránh lây lan; nhặt và tiêu hủy trái rụng vì bệnh. Phun các loại thuốc như: Tipo-M 70BHN, Tinomyl 50WP, Lâmbac 35SD, Tipozeb 80WP, Awin 100SC, Carbenzim 500FL, Thio-M 500SC, Score, Antracol, Daconil, Nustar hay Benomyl…2-3 lần, cách nhau 10-15 ngày/lần.Trái sau thu hoạch có thể xử lý bằng nước nóng 520C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.

8. Thu hoạch:
Từ khi đậu trái đến khi thu hoạch vú sữa là 180 - 200 ngày, mùa thu hoạch vú sữa Lò rèn tập trung vào tháng 2 và tháng 3 (dương lịch). Khi chín vỏ vú sữa lò rèn có màu hột gà sáng bóng.
Vỏ vú sữa mỏng nên dễ bị giập, trầy sướt; khi chín cuống trái dễ bị sút ra nên khi thu hoạch phải thật nhẹ nhàng và khéo léo, không để trái trực tiếp xuống đất vì nấm bệnh từ đất sẽ xâm nhập vào trái qua cuống hoặc vết thương.
Nên bao trái để tránh trầy sướt khi vận chuyển. Trong thời gian tồn trữ, vận chuyển không nên để trái tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời vì sẽ làm tổn thương vỏ trái, không nên che nắng trái bằng tấm nilon vì nilon hấp thu nhiệt sẽ làm nám vỏ trái.
Khi chất trái vào thùng, vào giỏ…nên lót giấy hoặc vật liệu xốp và không nên chất quá 4-5 lớp /giỏ.

Kỹ thuật nhân giống cây vú sữa

Kỹ thuật nhân giống cây vú sữa

Cách nhân giống này phải chọn nhánh có đường kính lớn và cần khoảng 6 tháng nhánh mới cho ra rễ

Ở Việt Nam vú sữa được trồng đầu tiên ở Miền Nam, sau đó lan dần ra Bắc. Tuy nhiên, ở phía Bắc vú sữa không được trồng phổ biến vì:

A. Giới thiệu

Cây vú sữa có tên khoa học là Chrysophyllum cainito (tên tiếng Anh: Star apple, tiếng Pháp: Cainitier) thuộc họ hồng xiêm (Sapotaceae) đã được trồng ở Nam Mỹ, Mêhico, Florida và nhập nội vào Sri Lanka, Ấn Độ, Philippines, Thái Lan.

Ở Việt Nam vú sữa được trồng đầu tiên ở Miền Nam, sau đó lan dần ra Bắc. Tuy nhiên, ở phía Bắc vú sữa không được trồng phổ biến vì:

- Sản lượng trái thấp,

- Chất lượng trái không được đánh giá cao,

- Cây chậm cho trái, cây cao, khó thu hoạch.

Có nhiều giống vú sữa được người nông dân chọn trồng như vú sữa nâu, vú sữa nâu bách thảo, vú sữa bánh xe, vú sữa dây,… nhưng được ưa chuộng nhất là giống vú sữa Lò rèn Vĩnh Kim. Giống vú sữa này khi trái chín có hình cầu, phía đuôi trái màu trắng má hồng, thịt trái có màu trắng sữa, vị ngon ngọt.

B. Kỹ thuật nhân giống


I/.Nhân giống hữu tính:

Trước đây, người ta nhân giống bằng hạt . Thông thường sau khi gieo hạt 3 - 4 tuần thì cây mọc, người trồng bứng đem đến nơi đã đào lỗ, bón lót phân sẵn và trồng vào đó. Phương pháp này hiện nay không còn phổ biến vì cây trồng bằng hạt thường bị biến dị nên không giữ được đặc tính ban đầu của cây mẹ: dạng trái, màu sắc trái…, sau khi trồng phải đến 7 - 9 năm mới cho trái.

Hiện nay việc gieo ươm hạt vú sữa chủ yếu để sản xuất cây gốc ghép.

II/. Nhân giống vô tính bằng cách chiết nhánh

Cách nhân giống này phải chọn nhánh có đường kính lớn và cần khoảng 6 tháng nhánh mới cho ra rễ, vì thế tỷ lệ nhân giống không cao và tỷ lệ thành công thấp.

Cây trồng bằng nhánh chiết, rễ không ăn sâu nên cây dễ bị giông gió làm đổ ngã, lật gốc.

Tuy nhiên, cây trồng bằng nhánh chiết có những ưu điểm:

- Mau cho trái: thông thường sau 3 năm trồng cây chiết đã cho trái nếu được chăm sóc, bón phân, tưới nước đầy đủ.

- Chất lượng trái, hình dạng trái giữ được đặc tính của cây mẹ.

III/. Nhân giống vú sữa bằng phương pháp ghép cải tiến:

Theo phương pháp ghép thông thường, mối ghép phải cách mặt bầu đất từ 20cm trở lên, nhưng do cây vú sữa là loại cây đa niên (có thể sống và cho trái đến 70-80 năm) nên cần phải có bộ rễ phát triển và ăn sâu trong đất, cây trồng bằng hạt có được lợi điểm này nhưng cây chậm cho trái và chất lượng trái không tốt; trồng bằng cây chiếc thì cây nhanh cho trái, chất lượng và mẫu mã trái tốt nhưng bộ rễ bàng, rất dễ bị đổ ngã khi gặp giông to, gió lớn.

Với cách ghép cải tiến, do nơi tiếp giáp giữa cành và gốc ghép cách mặt bầu 6-10cm nên sau khi trồng một thời gian, nơi vết ghép sẽ phát triển một tầng rễ mới giúp cây hấp thu dinh dưỡng nhiều hơn, chống chịu với ngoại cảnh tốt hơn và giảm được hiện tượng bật gốc, đổ ngã. Cây cho trái sau 4 năm trồng nếu được chăm sóc, bón phân đầy đủ, trái có hình dạng, mẫu mã, chất lượng hoàn toàn giống với cây mẹ.

Xem tiếp


Phòng trừ sâu bệnh hại trên cây vú sữa

Phòng trừ sâu bệnh hại trên cây vú sữa

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao


I. Các loại sâu hại chính

1. Sâu đục trái (Alophia sp.- pyralidae):

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao.

Phòng trị: Sau thu hoạch, tỉa bỏ cành sâu bệnh, cành gãy…giúp vườn cây thông thoáng. Thu gom và tiêu hủy trái bị hại để sâu non không hóa nhộng và gây hại ở lứa tiếp theo. Phun thuốc khi thấy có sâu non xuất hiện bằng các loại thuốc như: Basudin 50ND, Sumi Alpha 5EC, Karate 2,5EC, Cypermap 10EC… liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

2. Sâu ăn bông (Eutalodes anithivora – Gelechiidae):

Gây hại từ khi bông bắt đầu nhú ra đến khi hoa trỗ nhụy, sâu non đục vào bên trong làm bông bị hư.

Phòng trị: khi phát hiện có sâu hại, phun các loại thuốc có tác dụng lưu dẫn như: Cyber Alpha 50ND, liều lượng theo hướng dẫn trên chai thuốc.

3. Sâu đục cành (Pachyteria  equestris - Coleoptera):


Gây hại quanh năm. Con trưởng thành đẻ trứng lên đọt non, sâu non nở ra ăn lòn vào trong cắn phá cành, làm chết cành.

Phòng trị: Thường xuyên thăm vườn, nếu thấy có mọt đổ từ các cành thì dùng que xoi vào lỗ đục và bắt bằng tay hoặc bơm thuốc trừ sâu có tính lưu dẫnvào các lỗ đục, sau đó trám lỗ đục lại bằng đất sét hoặc sáp.

4. Rệp sáp (Pseudococcus sp.):


Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên vú sữa. Rệp chích hút lên lá, lên trái…. rệp tấn công từ khi trái còn nhỏ đến khi thu hoạch làm cho trái không phát triển. Ngoài ra, rệp tiết ra mật ngọt, tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, làm mất phẩm chất trái.

Phòng trị: tỉa bỏ những lá, trái bị nhiễm nặng, dùng máy bơm phun nước lên những chỗ có rệp sáp để rửa trôi rệp. Phun thuốc khi mật số rệp cao. Có thể bổ sung dầu khoáng DC- Tronplus 0.5% để tăng hiệu lực của thuốc.

II. Các loại bệnh hại chính

1. Bệnh thối trái (Do nấm Colletotrichum sp.):

Nấm bệnh tấn công trái từ khi trái còn non đến khi thu hoạch. Ban đầu trên trái có những đốm nhỏ hình tròn màu nâu hoặc nâu đen, sau đó vết bệnh lan rộng ra và các vết bệnh nối tiếp nhau bao phủ cả trái. Trái bệnh thường bị chai sượng và rụng.

Ngoài ra, nấm Lasiodiplodia theobromae cũng làm cho trái bị thối khi thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ. Với vết bệnh ban đầu nơi gần cuống trái do thu hoạch không chừa cuống hoặc vỏ trái bị trầy xướt, sau đó vết bệnh lan dần làm hư thối cả trái.

Phòng trị:
Vệ sinh vườn, tỉa bỏ và thu gom những trái bị bệnh lại để tiêu hủy. Không nên trồng quá dày, tỉa bỏ cành vô hiệu để giúp vườn thông thoáng, hạn chế nấm bệnh phát triển.

Khi thu hoạch tránh gây bầm giập, trầy xướt trái, không làm rụng cuống trái để giúp vườn thông thoáng, hạn chế sự xâm nhập của nấm bệnh. Cần theo dõi thường xuyên nếu thấy bệnh phát triển nhiều thì phun các loại thuốc như Antracol 70WP, Benlate 50WP, Manzate 80WP, Daconil 75WP, Carben 50SC, Thio – M 70WP…Ngoài ra, xử lý trái bằng nước nóng ở 52o C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.

2. Bệnh bồ hóng (Do nấm Capnodium sp.):

Nấm bệnh tạo thành từng mảng đen như bồ hóng bám trên mặt lá, trên trái làm giảm quang hợp của lá, làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Bồ hóng bám trên trái làm mã trái xấu bán không được giá. Nấm bệnh phát triển trên các vườn vú sữa có rầy mềm, rệp sáp, rệp dính…vì chất thải của rầy, rệp giúp nấm phát triển. Bệnh thường phát triển mạnh trong mùa nắng.

Phòng trị: Không trồng quá dày. Tỉa cành tạo tán hợp lý để vườn cây thông thoáng. Mùa nắng, chú ý phòng trị rệp sáp, rầy mềm, rệp dính, bằng các loại thuốc như Supracide 40EC, Trebon 10EC, Actara…Khi thấy có nấm bồ hóng: phun các loại thuốc có gốc đồng như Coc 85, Copper Zine, Copper B…

III. Quản lý dịch hại tổng hợp trên vườn cây vú sữa

1. Mục tiêu:

- Nhằm hạn chế hoặc ngăn chặn sự phát sinh - phát triển dịch hại và sự gây hại của chúng đến cây trồng

- Nhằm giảm thiểu việc sử dụng thuốc hoá BVTV trong vụ mùa

 - Tạo sự an toàn về môi sinh và cân bằng sinh thái

 - Nâng cao an toàn chất lượng sản phẩm và an toàn trong sản xuất

- Nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất nông nghiệp

2. Quản lý dịch hại tổng hợp sau khi thu hoạch: (từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch)

- Thu gom trái rơi rụng và những trái bị hư hại bởi sâu đục trái trên cây cho vào túi nylon cột chặt và đào hố chôn hoặc đốt tiêu hủy. Cắt tỉa cành sau thu hoạch, tiêu hủy tàn dư thực vật. Tưới bằng vòi phun áp lực cao, rửa trôi dịch hại trên cây.

- Sau thu hoạch làm đất (xới nhẹ), bón vôi, sử dụng bánh neem (sản phẩm của cây xoan) có trộn phân hữu cơ (2 - 3 kg/gốc) bón vào gốc (1/3 đường kính tán cây tính từ gốc) hoặc có thể xử lý Basudin 10 H (10 g/gốc) quanh gốc và tưới ẩm. Quét vôi thân cây.

- Phân bón đúng liều lượng tăng cường phân hữu cơ cho cây (có thể trộn sản phẩm Trichoderma với phân hữu cơ, bón 2 lần/năm vào mùa mưa)

- Xử lý ra đọt non đồng loạt, sử dụng thuốc BVTV có nguồn gốc vi khuẩn Bacillus thuringiensis kết hợp với thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc như cây xoan, cúc tổng hợp trị liệu các loài sâu hại tấn công giai đoạn lá non và hoa.

3. Quản lý dịch hại tổng hợp giai đoạn trái non:

- Tưới bằng vòi phun áp lực cao, rửa trôi dịch hại tấn công trái và các bộ phận khác.

- Thăm vườn thường xuyên phát hiện, thu gom và tiêu huỷ những trái có bị hại.

- Biện pháp bao trái: Nhằm ngăn chặn sự tấn công dịch hại, tránh sự va chạm xây xát và ngoài ra không thấy xuất hiện triệu chứng da ếch. Trái thu hoạch không có tì vết, màu sắc bóng đẹp và chất lượng cao. Sử dụng túi bao khi trái có đường kính khoảng 3-4 cm (khoảng 4 – 4.5 tháng sau khi ra hoa). 1-2 ngày trước khi bao trái xử lý bằng thuốc BVTV gốc cúc (Pyrethroids) hoặc gốc lân tổng hợp có thể kết hợp với thuốc trừ nấm bệnh như Ridomyl gold, Benomyl… Sau đó, nhà vườn bao từng trái, cho trái vào túi bao (không có lá, không bao những trái đã bị sâu hại tấn công hoặc có vết sẹo hay di dạng) và gút lại bằng nút gút cao su trên đầu túi bao.

Chú ý: Để quan sát theo dõi sinh trưởng trái, nên bao đồng loạt dạng kích thước trái, đánh dấu túi bao bằng màu sắc khác nhau, ghi lại thời gian bao trái, thời gian đậu trái, để tiện cho quản lý và thu hoạch. Đến thời điểm thu hoạch, cắt trái xuống bằng dụng cụ thu hoạch, lột túi bao, rửa sạch, phơi 2 - 3 nắng, túi bao có thể sử dụng lại một lần cho vụ sau.

- Biện pháp sử dụng thuốc BVTV: Do vú sữa là cây đa niên, tán rộng, có số lượng trái trên cây khá lớn, khó mà bao hết trái trên cây. Cần có biện pháp quản lý dịch hại bằng thuốc BVTV để ngăn chặn sự tấn công của sâu đục trái. Nên thăm vườn thường xuyên, quan sát triệu chứng gây hại và xử lý kịp thời. Kết hợp thuốc vi khuẩn B. thuringiensis với các thuốc có nguồn gốc thảo mộc như cây xoan (neem), hoặc gốc cúc tổng hợp hoặc gốc lân tổng hợp phun khi trái có đường kính 1,5- 2 cm và tỷ lệ trái bị hại (nhiễm) là 1 %. Nếu vườn có sự hiện diện rệp sáp sử dụng thuốc BVTV gốc cúc (Pyrethroids) hoặc gốc lân tổng hợp kết hợp với dung dịch nước rửa chén Mỹ Hảo (5-7ml/10 lít nước). Có thể kết hợp với thuốc trừ nấm bệnh như Ridomyl gold, Benomyl…trong trị liệu bệnh hại trên trái.

4. Phòng trừ dựa vào tập tính của ruồi đục trái:

- Sử dụng Methyl eugenol làm bẫy (giết ruồi đực): dùng hộp nhựa có kích cở: 10 x 20 cm, cắt 2 lổ cánh cửa bên hộp, có giữ lại mái (hạn chế mưa tạt vào). Hộp nhựa có thể sơn màu vàng. Bên trong nắp hộp có dây treo, gard y tế (bông gòn) tẩm thuốc (1 ml Vizubon), gắn vào dây treo ở bên trong nắp hộp. Treo hộp nhựa ở chiều cao 1,5 – 2m, dưới tán cây thoáng mát, tránh ánh nắng chiếu thẳng vào làm phân hủy nhanh chất dẫn dụ, đặt 20 bẫy/ha, treo theo những điểm quanh vành đai của vườn, tránh cho sự tấn công của kiến vào bẫy (dùng mở bò bôi trơn dây treo). Thời gian đặt bẫy và thay bẫy: 1,5 - 2 tháng trước thu hoạch, trái sắp chín (nếu thu hoạch tháng 11,12 treo bẫy tháng 9, 10 hoặc thu hoạch tháng 3 treo bẫy tháng 1). Từ 1,5 đến 2 tuần thay bẫy một lần, bằng cách bơm thuốc mới vào gard y tế hay bông gòn trong hộp nhựa.

- Phun SOFRI protein để diệt ruồi đục trái (giết con cái): Pha 1 lít nước với 50 ml của SOFRI protein và 3 ml Regent 5 SC. Phun hỗn hợp đã pha thành điểm 50 ml/cây, vào lúc 8 - 10 giờ sáng. Phun khi 90 ngày sau khi đậu trái. Phun định kỳ 7 - 10 ngày/lần.

- Thiên địch sâu đục trái: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy Kiến Hôi Dolichodorus thoracius có khả năng khống chế mật số của sâu đục trái Alophia sp. một cách hữu hiệu.

Xem tiếp

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2018

Bệnh thối rễ cây vú sữa tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Bệnh thối rễ cây vú sữa tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Bệnh thối rễ là một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm và gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho cây vú sữa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đặc biệt ở vùng trồng tập trung cây vú sữa cuả tỉnh Tiền Giang và Cần Thơ

Triệu chứng:

Trên lá: Triệu chứng khá phổ biến và điển hình cuả bệnh thối rễ trên cây vú sữa là cây còi cọc, kích thước lá bị thu nhỏ lại hay còn gọi “lá me”, tán lá thưa, có màu xanh xám, đôi khi lá trên một số hay phần lớn các cành bị rụng dẫn đến hiện tượng cây bị trơ cành. Nếu cây mang nhiều trái thì chỉ thu hoạch được những lứa trái đầu tiên, trong khi đó phần lớn lượng trái còn lại đều bị héo xanh không thể thu hoạch được.

Thân: Trên những cây bị nhiễm bệnh thì da thân cây vú sữa tròn lẳng không còn gồ ghề như thân cây me.

Rễ: Hệ thống rễ tơ (rễ mền) hay kể cả rễ thứ cấp đều bị bị thối nhũn, sau đó khô và hoá nâu. Ngoài ra, bệnh còn tấn công ở vị trí cổ rễ hay một số vị trí cục bộ trên rễ chính (nằm gần mặt đất) từ đó làm cho toàn bộ hệ thống rễ bị thối khô và hoá nâu, nếu phát hiện muộn thì sẽ rất khó phòng trị.

Tác nhân: do nhiều tác nhân như: nấm Fusarium solani, Fusarium oxysporium và Pythium helicoides gây ra.

Điều kiện phát sinh, phát triển:

Bệnh thối rễ vú sữa có xu hướng gia tăng mạnh từ tháng 2 đến tháng 6dl, sau đó tiếp tục tăng nhẹ cho đến tháng 12 dương lịch. Điều này cho thấy bệnh thối rễ cây vú sữa xuất hiện vào các tháng mùa khô trong năm và kéo dài sang mùa mưa. Trong khoảng này trùng với thời điểm thu hoạch giữa vụ trở đi và nông hộ tiếp tục giai đoạn xử lý ra hoa cho vụ sau làm cho bệnh trở nên trầm trọng hơn.

Ẩm độ đất thích hợp cho bệnh phát triển >50%.

Đối với nấm F. solani, F. oxysporium, nhiệt độ môi trường thích hợp cho sự phát triển biến thiên từ 20-35 độ C, nhiệt độ tối hảo là 30 độ C. Trong khi đó nấm P. helicoides có thể phát triển trong khoảng nhiệt độ tương đối rộng 20-40 độ C và ở 30-40 độ C là điều kiện nhiệt độ lý tưởng nhất cho sự phát triển tối ưu cuả chúng.

pH đất thuận lợi cho sự phát triển cuả tác nhân gây bệnh thối rễ cây vú sữa ở mức > pH 4-6.

Những vườn vú sữa bón càng ít phân hữu cơ hoặc không bón và sử dụng biện pháp bơm lùa để xử lý ra hoa thì có tỷ lệ bệnh càng cao.

Bệnh thối rễ cây vú sữa do nhiều tác nhân khác nhau, những tác nhân này đều có nguồn gốc phát sinh từ đất do đó đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp quản lý tổng hợp thì hiệu quả phòng trị bệnh mới đạt hiệu quả.


Kỹ thuật trồng cây vú sữa ghép

Kỹ thuật trồng cây vú sữa ghép

Chrysophyllum cainito - từ đồng nghĩa: Achras caimito, là danh pháp khoa học của một loài cây nhiệt đới trong họ Hồng xiêm - Sapotaceae, bộ Thạch nam - Ericales, trước đây coi là thuộc bộ Thị - Ebenales, có nguồn gốc ở các vùng đất thấp của Trung Mỹ và Tây Ấn. Tên gọi trong tiếng Việt của nó là vú sữa.

A . GIAI ĐOẠN MỚI TRỒNG ĐẾN 3 NĂM TUỔI

1. Thời vụ trồng:

Nếu chủ động nước tưới có thể trồng bất cứ thời điểm nào trong năm; tuy nhiên trồng vào mùa mưa sẽ ít tốn công tưới.

2. Chuẩn bị đất trồng:


- Thiết kế vườn:
   + Vẽ sơ đồ vườn theo mương, liếp để quản lý, chăm sóc, ghi chép nhật ký canh tác.
   + Đào mương, lên liếp: nếu trồng mới trên đất ruộng nên đào mương sâu 1 – 1,5 m, bề mặt liếp rộng 7 – 10 m.
   + Bố trí hệ thống đê bao, cống bọng để tưới – tiêu chủ động.
   + Trồng cây chắn gió: chú ý trồng cây chắn gió vì cây vú sữa dễ bị lật gốc, tét nhánh vì vậy cần phải trồng cây chắn gió; đặc biệt là những vườn ở ven sông lớn. Hàng cây chắn gió phải thẳng góc với hướng gió thường thổi tới. Hàng cây chắn gió còn giúp giữ độ ẩm cho vườn, cây quang hợp tốt (do lượng CO2 ổn định hơn), tránh được đổ ngã khi có gió lớn, cây thụ phấn và đậu quả cũng tốt hơn.

- Chuẩn bị đất để lên mô trồng: chọn đất mặt ruộng, đất bùn ao, đất vườn cũ, xử lý khoảng 1 – 1,5 kg vôi/mô,  phơi 15 – 30 ngày trước khi trồng.

- Chất mô: theo sơ đồ đã thiết kế, đường kính mô từ 0,8 – 1m, cao 0,4 – 0,7m.

- Trộn phân hữu cơ đã hoai mục với Trichoderma để tăng vi sinh vật đối kháng trong đất khống chế nấm bệnh. Có thể dùng chế phẩm EM để thúc đẩy phân mau hoai và cung cấp thêm vi sinh vật hữu ích cho cây trồng.

- Bón phân lót: mỗi mô bón 10 – 15kg phân hữu cơ hoai (đã ủ ở phần trên), 0,3kg super lân, 0,1kg DAP  .

3. Cách trồng:

- Mật độ - khoảng cách: Tùy theo chiều rộng mặt liếp mà bố trí số hàng cây. Với liếp rộng 7 - 8m thì bố trí trồng một hàng cây ở giữa liếp, khoảng cách 8m/cây, mật độ 12 - 13 cây/1000m2. Với liếp rộng 9 - 10m, trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Có thể trồng xen rau màu hoặc cây ăn trái ngắn ngày trong 1 - 3 năm đầu để tăng thu nhập.

- Cách đặt cây: Khoét lỗ trên mô vừa với bầu cây con (khoảng 20 – 25 cm), cắt bớt gốc cành ghép (treo bầu), xé bỏ bao nilon (đựng bầu đất), đặt cây con vào hố, dùng dao cạo nhẹ lớp vỏ nơi tiếp xúc giữa cành ghép và gốc ghép lấp đất đến nơi vừa cạo vỏ giúp hình thành 1 lớp rễ mới sau khoảng vài tháng trồng; ém đất chặt, dùng 3 cây cọc để cố định cây con, chú ý che nắng cho cây.

4. Chăm sóc:

- Dùng rơm tủ gốc để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại.

- Làm cỏ để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng, nên cắt bớt cỏ trong vườn, hạn chế dùng thuốc diệt cỏ trong vườn cây ăn trái.

- Tưới nước: cần cung cấp nước đầy đủ cho cây vú sữa, mỗi tuần tưới 3 - 5 lần, mỗi lần tưới 20 - 30 lít nước/cây nhất là vào mùa nắng để giảm tỷ lệ cây chết và giúp cây phát triển nhanh đặc biệt trong 3 năm đầu. Nên giữ mực nước trong mương cách mặt liếp ít nhất 40 cm.

- Bón phân:
+ Sau khi trồng đến một năm: sử dụng NPK 16 – 16 - 8 +  Urê tỉ lệ 1:1, liều lượng 40 g/cây; hoà phân vào nước để tưới, mỗi tháng nên bón phân 1 lần
+ Cây 1 – 3 năm tuổi: bón 1 – 2 kg hỗn hợp gồm Urê, DAP, NPK 16 – 16 – 8 (hoặc 20 – 20 – 15), với tỉ lệ 1:1:1; chia làm 4 lần bón trong năm, lượng phân bón tăng dần theo độ lớn của cây (năm đầu dùng 1kg phân, sau đó tăng dần)

- Tỉa cành tạo tán: trong các năm đầu nên tỉa cành để cây vú sữa có cành phân bố theo 4 hướng, tạo cho cây có tán tròn  đều. Chú ý tỉa bỏ cành vượt, cành trong tán cây, cành bị sâu bệnh


Kỹ thuật bón phân cho cây vú sữa

Kỹ thuật bón phân cho cây vú sữa

Các giống vú sữa hiện có như: Vú sữa Lò Rèn, vú sữa vàng, vú sữa nâu tím và vú sữa bánh xe. Trong đó giống vú sữa Lò Rèn được trồng phổ biến với nhiều ưu điểm nổi bật như: Năng suất cao, vỏ quả mỏng, tỷ lệ thịt trái nhiều, độ brix cao, hương thơm, vỏ quả sáng đẹp. Trồng vú sữa trên đất ruộng phải đào mương lên liếp.

Tùy theo chiều rộng mặt liếp mà bố trí số hàng cây cho phù hợp. Với liếp rộng 7 – 8 m thì bố trí trồng một hàng ở giữa liếp, khoảng cách 8 m/cây, mật độ 12 - 13 cây/1.000 m2. Với liếp rộng 9-10m, trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Sử dụng đất mặt ruộng, đất bùn ao, đất vườn cũ để lên mô, đường kính mô từ 0,8 – 1 m, cao 0,4 - 0,7 m.

Nên xử lý khoảng 1 - 1,5 kg vôi/mô trước khi trồng 15 - 30 ngày. Trước khi trồng, bón lót từ 10 – 15 kg phân hữu cơ hoai và 0,5 - 1,5 kg lân vi lượng Đầu Trâu hoặc 10 – 20 gram NPK 20-20-15 + TE Đầu Trâu cho mỗi hố trước khi trồng.

Cây vú sữa trồng từ nhánh chiết, được chăm sóc tốt sẽ cho trái sau 3 năm, đây được gọi là giai đoạn kiến thiết cơ bản. Trong thời kỳ này, cây vú sữa cần nhiều đạm, lân cao và kali với lượng vừa đủ, để phát triển bộ rễ và cành nhánh. Phân bón NPK 20-20-15 + TE Đầu Trâu có hàm lượng đạm, lân cao với lượng kali vừa đủ, ngoài ra được bổ sung các chất trung và vi lượng hoàn toàn dễ tiêu, thích hợp cho cây vú sữa ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.

Sau khi trồng được một năm tuổi, hòa tan 40 - 60 gram NPK 20-20-15 + TE Đầu Trâu với 15 - 20 lít nước để tưới/cây, mỗi tháng 1 lần. Năm thứ nhất đến năm thứ ba bón 1,0 - 2,0 kg NPK 20-20-15 + TE Đầu Trâu chia ra bón 4 lần trong năm. Trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, nên tạo tán để cây vú sữa có cành phân bố theo 4 hướng, giúp cây có tán tròn đều. Rễ vú sữa thường ăn nông, nhiệt độ của đất cao vào mùa nắng sẽ ảnh hưởng đến bộ rễ, do đó cần phải tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, cỏ khô. Nên tủ cách gốc 30 – 50 cm để tránh sâu bệnh tấn công.

Từ năm thứ tư cây vú sữa bắt đầu cho trái. Mỗi năm bón từ 2,0 - 3,0 kg NPK 20-20-15 + TE Đầu Trâu chia làm 4 lần bón trong năm như sau: trước ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu hoạch 1- 2 tháng. Cây vú sữa có tán to, cành giòn, dễ gãy vì vậy nên tỉa thấp lại cành chính, khống chế chiều cao của cây không quá 4 - 4,5 m để tiện chăm sóc, thu hoạch sau này.

 Cây vú sữa từ năm thứ 5, bước sang giai đoạn cho trái ổn định và đi vào giai đoạn kinh doanh. Để cung cấp kịp thời và cân đối các chất dinh dưỡng cho cây nên bón làm 5 lần, với 3 loại phân bón, vào các thời kỳ sau:

+ Lần 1: Bón vào giai đoạn xử lý ra hoa từ: 10 – 20 kg phân lân vi lượng Đầu Trâu và 1 – 3 kg AT1 Đầu Trâu.

+ Lần 2: Cách lần 1 khoảng 1,5 - 2 tháng khi hoa chuẩn bị nở, bón 1 - 2,0 kg AT2 Đầu Trâu, giúp hoa nở tập trung.

+ Lần 3: Sau khi hoa nở khoảng 1,5 tháng, trái có đường kính 2 – 3 cm, bón với lượng 1,0 - 2,0 kg AT3 Đầu Trâu hoặc NPK 13-13-13 + TE Đầu Trâu/cây.

+ Lần 4: Bón nuôi trái, khi quả non có đường kính khoảng 5 – 6 cm, 1,5 - 3,0 kg phân AT3 Đầu Trâu hoặc NPK 13-13-13 + TE Đầu Trâu/cây.

+ Lần 5: Bón vào giai đoạn trước thu hoạch 1,5 tháng với liều lượng 1,5 - 2,5 kg phân AT3 Đầu Trâu hoặc NPK 13-13-13 + TE Đầu Trâu/cây.

 Đối với cây vú sữa, từ khi đậu trái đến thu hoạch khoảng 180 - 200 ngày. Mùa thu hoạch vú sữa tập trung vào tháng 2 và tháng 3 dương lịch.

- Phòng trừ sâu bệnh: Sâu bệnh hại vú sữa thì có nhiều loại, nhưng ở giai đoạn nuôi trái lớn như bạn yêu cầu thì nên chú ý những đối tượng chính dưới đây:

- Sâu đục trái (Alopia sp.) phá hại từ khi trái còn nhỏ cho đến khi đã già và chín, có thể làm rụng hoặc hư cả trái, giảm phẩm chất trái. Khi mới thấy một vài trái non bị hại thì phun ngay, phun 2-3 lần cách nhau 7-10 ngày/lần bằng các loại thuốc Vibasu, Sagolex, Oncol, Netoxin, Lorsban…

- Bệnh thối trái do nấm Lasio diplodia Theobromac và Colletotrichum sp. xâm nhập từ khi trái còn nhỏ gây ra. Vết bệnh lúc đầu chỉ là một đốm nhỏ màu đen, gặp thời tiết ẩm bệnh phát triển mạnh, lây lan nhanh khắp trái, làm trái khô đen và rụng, tỷ lệ trái hư khá cao, đôi khi lên tới 20-25%. Phòng trừ bằng cách vệ sinh vườn cho thoáng, tránh lây lan; nhặt và tiêu hủy trái rụng vì bệnh. Phun các loại thuốc như: Carbenzim 500FL, Thio-M 500SC, Score, Antracol, Daconil, Nustar hay Benomyl…2-3 lần, cách nhau 10-15 ngày/lần.Trái sau thu hoạch có thể xử lý bằng nước nóng 520C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.