Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

Khắc phục đu đủ bị chết do mưa úng

Khắc phục đu đủ bị chết do mưa úng

Rễ đu đủ mềm, giòn và yếu, khi bị ngập úng dễ bị thối, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây


Đu đủ không có rễ cái. Rễ cố định có tác dụng giữ cho cây vững chắc, thường ăn sâu vào đất 0,8-1m. Rễ hút rải đều ở tầng mặt 10-30cm, rất nhỏ, mang nhiều lông hút làm nhiệm vụ hút nước, chất dinh dưỡng cung cấp cho cây. Rễ đu đủ mềm, giòn và yếu; khi bị ngập úng dễ bị thối, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây. Nếu bị úng kéo dài, cây có thể bị chết.Nếu trong đất trồng đu đủ thừa nước, cần áp dụng một số biện pháp sau:

Đào mương rộng để có đủ đất đắp lên luống cao cách mực nước ngầm cao nhất khoảng 60-70cm, thiết kế mặt luống hình mai rùa, xây dựng hệ thống thoát nước, không để nước đọng trong vườn khi có mưa lớn và kéo dài. Ở những nơi thường bị ảnh hưởng lũ lụt, phải lên luống thật cao, xây tường rào, bờ bao xung quanh để chủ động bơm nước ra khỏi vườn khi cần thiết. Không nên đi lại nhiều trong vườn đu đủ đang bị ngập nước. Một số nơi bị úng ngập hằng năm, các nhà vườn có kinh nghiệm thường ươm đu đủ trên bầu, sọt; khi nước lũ rút, đất khô thì trồng nơi cố định, đu đủ sẽ cho thu hoạch sau gần một năm; khi lũ về thì phá bỏ. Trồng lại khi nước rút

Bệnh đốm vòng trên cây đu đủ và cách phòng trị

Bệnh đốm vòng trên cây đu đủ và cách phòng trị

Bệnh đốm vòng - Papaya Ringspot Virus còn gọi là bệnh đốm hình nhẫn, là một bệnh rất phổ biến trên cây đu đủ. Bệnh có thể gây hại ở nhiều bộ phận khác nhau của cây từ lá, quả đến thân và cuống lá.


1. Triệu chứng của bệnh

- Trên lá: Ban đầu là các vết đốm sáng vàng lợt, lá hơi co lại, sau đó vết bệnh phát triển dần thành các đốm vòng tròn (giống hình chiếc nhẫn). Mặt trên của những lá non, lá ngọn vùng mô bị bệnh nhăn phồng; bìa lá non bị cuốn cong vào phía trong của mặt dưới lá, bìa lá già bị cuốn lên, lá bị khảm và biến dạng. Những cây bị bệnh nặng, lá non thường bị mất thùy, chỉ còn cuống lá, đôi khi cuống lá cũng bị biến dạng co quắp.

- Trên quả: Lúc đầu vết bệnh chỉ là những đốm thâm xanh sẫm, sau đó phát triển dần thành những đốm vòng tròn hoặc bầu dục, có kích thước khoảng 0,5 - 1 cm (giống hình chiếc nhẫn) màu xanh sẫm. Bệnh tập trung gây hại nhiều ở phần nửa quả phía sát với cuống. Khi quả già chín, những vòng tròn trên quả chuyển dần sang màu vàng sậm và thối ăn sâu vào bên trong thịt quả. Cây bị bệnh thường ít quả, quả rất nhỏ, quả chín ăn rất nhạt.

-Trên thân và cuống lá: Vết bệnh là những sọc ngắn màu xanh tối, đôi khi cũng tạo nên các hình bầu dục, xuất hiện chủ yếu ở phần non trên ngọn.

2. Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh đốm vòng trên cây đu đủ do một loại virút có tên khoa học là Papaya ringspot virus (PRSV) gây ra.

Bệnh đốm vòng đu đủ không lây truyền qua hạt giống, mà theo 2 con đường chính là qua vết thương cơ giới và côn trùng môi giới. Môi giới truyền bệnh đốm vòng đu đủ chủ yếu là các loài rệp muội như Aphis gossipii, Aphis crasivora (gây hại nhiều trên các loại rau cải, bầu, bí, mướp, dưa…), đặc biệt là rệp đào (Myzus persicae). Chúng thường chích hút nhựa cây và truyền virút đốm vòng từ cây bệnh sang cây khoẻ.

Bệnh đốm vòng lây lan rất nhanh, nhất là ở những cây đu đủ 5 - 6 tháng tuổi trở đi. Cây bị bệnh thường biểu hiện giống với triệu chứng thiếu dinh dưỡng hoặc hậu quả của chất hóa học (thuốc trừ cỏ). Do đó, bệnh khó phát hiện ở giai đoạn sớm.

3. Biện pháp phòng trị

Hiện nay chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc chữa trị bệnh đốm vòng cho cây đu đủ, vì thế nên kết hợp một số biện pháp để hạn chế tác hại của bệnh như:

- Chọn cây giống khoẻ, không có triệu chứng đã bị nhiễm bệnh.

- Theo dõi, phát hiện và chặt bỏ sớm những cây đã bị bệnh, đem tiêu hủy.

- Thường xuyên làm sạch cỏ dại trong vườn đu đủ.

- Không nên trồng xen các loại rau cải, bầu bí, mướp… trong vườn đu đủ. Hạn chế việc làm cho cây bị sây sát tạo vết thương cơ giới cho virút xâm nhập.

- Chăm sóc cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, khỏe mạnh, giúp cây chống đỡ với bệnh được tốt hơn.

- Có thể phun xịt bằng một trong các loại thuốc sau đây để tiêu diệt côn trùng môi giới truyền bệnh như: Supracide, Suprathion, Bi58, Trebon, Bassa, Applaud… (cách sử dụng theo khuyến cáo trên nhãn thuốc). Đu đủ rất dễ bị cháy lá bởi các loại thuốc nhũ dầu, do đó không được pha thuốc đậm đặc và chỉ nên phun thuốc vào lúc chiều mát.

Đu đủ mẫn cảm với phân đạm

Đu đủ mẫn cảm với phân đạm

Đu đủ là loại cây ăn trái nhiệt đới, được trồng phổ biến rộng rãi. Đu đủ có thể trồng trên đất không hoặc ít phèn, độ pH từ 5,5 - 6,5


Đất phải tơi xốp, dễ thoát nước. Nếu có lên mương líp, nên giữ mực nước trong mương với độ sâu 50 - 60cm cách mặt líp.


Hiện có 2 giống đu đủ phổ biến là giống Hongkong đa bông và Đài Loan tím. Chọn hạt làm giống từ những cây mẹ khỏe mạnh, sạch bệnh. Hạt sau khi xử lý, được ươm trên líp. Mặt líp có trộn tro trấu. Khoảng 5 - 10 ngày, hạt sẽ nẩy mầm.

Khi cây cao khoảng 4 - 6cm thì cấy vào bầu. Kích thước bầu 6 - 10cm. Nên chọn cây khỏe mạnh, kích thước trung bình, rễ chùm nhiều. Đất làm bầu: 1/3 lớp đất mặt xốp, 1/3 tro trấu và 1/3 phân chuồng. Cây con trong bầu được 2 - 4 tuần có thể đem trồng ra đất.

Hố trồng có kích thước chiều dài, chiều rộng và chiều sâu là 60 x 60 x 30cm. khoảng cách trồng: Hàng cách hàng từ 2 - 2,5m, cây cách cây là 2m (khoảng 2.000 - 2.100 cây/ha). Sau khi đào hố, tiến hành bón lót. Mỗi hố bón 10 - 15kg phân chuồng, 0,5kg lân, 0,2kg kali, 0,5kg vôi bột. Trộn đều tất cả phân với đất mặt rồi lấp đầy hố trồng.

Đu đủ có quả quanh năm, vì vậy cần phải bón phân để cung cấp dinh dưỡng cho cây nuôi hoa, quả. Lượng phân bón cho 1 cây đu đủ trong 1 năm: Phân chuồng 3 - 5kg, phân urea 200 - 300g, super lân 500 - 600g, KCl 200 - 300g. Có thể sử dụng dạng phân đơn hoặc phân hỗn hợp khác nhưng cần phải cân đối hàm lượng đạm, lân, kali.

Khi cây được 1 tháng tuổi sau khi trồng bón 20g phân urea và 30g super lân. Pha trong 10 lít nước tưới cho cây 1 lần/tuần.

Khi cây được 1 - 3 tháng tuổi bón 30g urê, 50g super lân và 20 - 30g KCl cho 1 cây. Bón 15 - 20 ngày 1 lần.

Khi cây từ 3 -7 tháng tuổi sau trồng bón cho 1 cây: 40g urê, 50g super lân và 40g KCl. Bón1 tháng 1 lần. Đến tháng thứ 6, có thể bón thêm 2kg phân chuồng và 100g vôi cho một cây, kết hợp vun gốc.

Có thể phun thêm phân bón lá. Phun định kỳ 3-4 tuần/lần theo nồng độ hướng dẫn. Chú ý không dùng phân hóa học và dùng ít nhất có thể phân đạm để bón cho đu đủ do dư lượng nitrat (NO3) trong quả có thể gây ngộ độc cho người dùng.

Cách chọn giống đu đủ cho nhiều quả

Cách chọn giống đu đủ cho nhiều quả

Các giống đu đủ của Việt Nam hay của Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, ấn Độ... đều để giống được, với điều kiện không phải là giống lai F1. Các giống của Đài Loan có tỷ lệ cây cái cao và thường thuộc loại cây lai nhân tạo.


Cây đu đủ vốn có tính di truyền phức tạp, phấn của hoa đực và hoa lưỡng tính lại rất khác nhau, tính mẫn cảm của phấn hoa đực cao gấp nhiều lần của hạt phấn hoa lưỡng tính, do đó đu đủ rất dễ bị lai tạp, khó giữ được giống tốt thuần chủng nếu không thụ phấn bắt buộc.

Việc thụ phấn bắt buộc trước hết phải chọn cây giống khoẻ, ít sâu bệnh, cần phải chọn đúng giống, chọn những nụ hoa ra ở lứa quả đầu tiên, khi cây còn đang rất sung sức, nếu vào đúng lúc thời tiết đầu mùa hè thì càng tốt, sau này số hạt sẽ cho nhiều hơn. Dùng kim châm cho các nụ hoa nhỏ ở trong chùm hoa nhiều vết, mấy hôm sau hoa tự rụng đi, chỉ để lại một nụ hoa ở giữa to nhất, khi đầu cánh của nụ hoa bắt đầu có màu trắng thì dùng túi nilon trong, châm thật nhiều lỗ cho dễ thoát hơi nước và không khí, sau đó bao nụ hoa lại theo dõi tới khi hoa nở.

Các buổi sáng tháo túi nilon ra, ngắt bao phấn thoa lên đầu nhụy hoa cái. Nếu cây giống là cây lưỡng tính, có hoa lưỡng tính thì lấy bao phấn của hạt hoa lưỡng tính. Nếu là giống chỉ có hoa cái và hoa đực riêng rẽ trên từng cây thì lấy phấn hoa đực và sau đó sẽ có 50% là hạt sẽ cho cây đực. Thụ phấn xong, bao hoa lại để tránh hoa bị thụ phấn của giống khác ngoài ý muốn. Chờ 2-3 ngày sau hoa rụng đi thì tháo túi nilon ra cho quả phát triển tự nhiên.

Muốn đu đủ cho sai quả và có quả to cần chọn chân đất tốt, ẩm và thoát nước tốt, ánh sáng đầy đủ, không bị cây khác che khuất. Chăm sóc thật tốt cho cây luôn có 50-60 lá xanh tốt trên cây.

Khi mới trồng nên đào hố sâu, rộng, bón lót từ 20-30kg phân hữu cơ mục và thêm 0,1-0,2kg lân, sang tháng thứ 2-3 thì bón thúc mỗi gốc khoảng 25-30 gam đạm và 40 gam DAP hoà tan trong nước, tưới vào dưới tán cây, cách xa gốc 20-30cm. Các tháng sau, cây to ra, hoa quả nhiều, cần tăng dần lượng phân cho tới lúc quả chín, hạn chế ở mức độ 120-150 gam urê và 140-160 gam DAP cho tới khi cây hết khả năng cho quả thương phẩm. Chú ý vào mùa lạnh cần tưới ẩm thường xuyên, kết hợp phun oxyclorua đồng. ở ấn Độ người ta còn tưới cả dung dịch này vào gốc cây, giúp cây có thêm vi lượng đồng, chống rét và bạc lá. Chú ý phòng trừ rệp hại cây.

Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017

Để đu đủ cho trái dài năng suất cao

Để đu đủ cho trái dài năng suất cao

Đu đủ là cây ưa nắng do đó cần trồng khoảng cách và mật độ thích hợp 2 - 2,5m x 3m. trong du du. Đu đủ sợ phân hóa học, phân đạm và ưa phân chuồng, phân vi sinh.


Không nên dùng phân hoá học và hạn chế tối đa phân đạm để bón cho đu đủ vì cây dễ bị lốp (tốt lá, xấu quả), dễ hấp dẫn côn trùng, gây ngộ độc cho người tiêu dùng do dư lượng nitrat (NO3) trong quả cao, gây đắng chát, dễ dẫn đến ung thư.

Nên bón nhiều phân chuồng, phân vi sinh, phân có nguồn gốc từ thực vật, động vật sau mỗi đợt thu quả nhằm tăng cường dinh dưỡng cho cây. Thường xuyên cung cấp đủ nước cho quả mau lớn, lớn đều. Khống chế chiều cao cây dưới 2m bằng cách cắt ngọn, trát bùn rơm hoặc bọc nylon để kích thích cây ra các ngọn mới. Chọn để lại 2 - 3 ngọn chồi mới khỏe mạnh phân đều về các hướng.

Không được trồng đu đủ liên tục nhiều vụ trên một diện tích vì dễ bị bệnh xoăn lá virus chưa có thuốc chữa. Nên luân canh với các cây trồng khác ít nhất 2 - 3 năm mới được trồng đu đủ lại.

Để đu đủ có trái dài, năng suất cao cần chú ý các kỹ thuật sau:

Khi gieo hạt, chọn những hạt to, nặng và chìm khi thả trong nước để có cây con tốt, sau đó đưa cây con ra bầu để dưỡng thêm một thời gian, đem trồng mỗi mô 2 bầu. Sau khi trồng 2,5 - 3 tháng (tùy theo mùa) thì cây ra hoa. Bóc những hoa đầu tiên ra xem. Nếu thấy hoa có bầu noãn được bao bọc bởi các túi phấn hoa đực màu vàng thì đó là cây lưỡng tính, nên chọn trồng những cây này. Bởi cây lưỡng tính rất dễ đậu trái, năng suất cao, trái lại dài.

Nếu thực hiện được các bước trên một cách tỉ mỉ thì sẽ chọn được từ 98 - 100% cây trái dài. Nhớ khảo sát hoa sớm để kịp thời loại bỏ cây cái và cây đực, tránh cạnh tranh dinh dưỡng.

Khi đã chọn được cây như ý muốn thì cần chú ý khâu bón phân. Do cây đu đủ đời sống ngắn, sản lượng cao, ra hoa, trái quanh năm vì vậy đòi hỏi về phân rất lớn. Sử dụng lượng phân bón cho 1cây/năm như sau: Phân chuồng 3 - 5kg, phân urê 200g, super lân 500 - 600g, KCl 200 - 300g.

Đu đủ chín quanh năm nên phân bón chia làm nhiều đợt bón, khoảng 3 - 4 lần/năm. Có thể sử dụng dạng phân đơn hoặc phân hỗn hợp khác nhưng cần phải cân đối hàm lượng đạm, lân, kali. Bón đủ kali sẽ làm tăng chất lượng, đu đủ ngọt, giòn. Rễ đu đủ ăn nông, rất sợ bị chạm rễ, khi bón phân tốt nhất là rắc phân lên mặt đất, sau đó phủ rác, đất vụn lên trên (bùn phơi khô càng tốt).

Bí quyết để có chậu đu đủ cảnh chơi Tết

Bí quyết để có chậu đu đủ cảnh chơi Tết

Một chậu đu đủ cảnh được coi là đẹp chơi trong những ngày tết phải có đủ hoa, lá và quả. Quả có đủ 3 loại, non, già, chín và có thế dáng siêu.


1. Thời vụ:
Ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, thời vụ trồng bắt đầu từ cuối tháng 4 đầu tháng 5 âm lịch. Thu hoạch vào dịp Tết Nguyên đán.

2. Giống trồng:
Giống đu đủ lai F1 chuyên trồng làm cảnh: Cây lùn, lóng đốt ngắn, trồng cây nào có quả cây đó.

3. Chuẩn bị chậu và đất trồng:


- Chậu: Dùng chậu sứ hoặc chậu xi măng chuyên dụng, kích thước: 90x40x40cm, lỗ thoát nước ở đáy, xung quanh.

- Đất trồng: Bao gồm hỗn hợp đất thịt ải, xỉ than tỷ lệ 3:1, ủ kỹ 12-15 ngày trước khi đưa vào chậu, 1m3 hỗn hợp này đủ cho 11-12 chậu trồng đu đủ cảnh. Yêu cầu, đất thịt ải phải là đất mới chưa qua gieo trồng bất cứ loại rau màu nào.

4. Ươm giâm bầu cây và trồng cây con lên chậu:

Trồng đu đủ cảnh nhất thiết phải trồng bằng cây con đã gieo ươm trong bầu; cần giâm lại cây giống ở nơi cao ráo, thoáng mát. Hàng ngày tưới nhẹ, bón thúc 1 lần sau giâm cây 2-3 ngày bằng super lân, liều lượng 100-150g super lân pha cho bình 8-12 lít nước, phun đều cho các bầu cây. Khoảng 12-15 ngày sau giâm có thể đưa cây trồng lên chậu.

Trồng cây lên chậu: Đưa hỗn hợp đất, xỉ than đã chuẩn bị trước đó đổ đầy cách miệng chậu 5-7cm. Bón lót mỗi chậu 0,5kg NPK (15-9-17+TE), và 0,2kg vôi bột. Nhấc nhẹ bầu cây, dùng dao sắc rạch nhẹ vừa đứt lớp vỏ bao bầu từ trên xuống đáy bầu nhưng không bóc bỏ vỏ bầu, để định hướng sự phát triển rễ cây trong chậu sau này. Trồng cây ngay ngắn trong chậu, phủ đất kín bầu, nén chặt nhẹ, tưới dưỡng ẩm hàng ngày. Đặt các chậu cây trong vườn so le nanh sấu cách nhau 2m x (1,5-1,7m).

5. Chăm sóc, uốn vít cây

Sau trồng cây lên chậu cần tưới ẩm ngày 1-2 lần, dùng rơm, rạ che phủ mặt chậu để hạn chế bốc thoát hơi nước và giữ ẩm cho cây. Định kỳ 15 ngày bón thúc phân hữu cơ, vô cơ và 30 ngày bón vôi bột, rắc trực tiếp lên mặt chậu xa gốc cây, các loại phân có thể dùng như: Phân gà, phân lợn, phân chim cút, phải ủ hoai mục, tốt nhất sử dụng bã thải từ hầm biogas hoặc bột ngô đỏ, đậu tương ủ với super lân cho lên men rồi bón. Liều lượng mỗi lần bón cho 1 gốc: 0,2kg vôi bột, 0,2kg NPK Đầu Trâu (15-9-17+TE) + 1-1,5 phân hữu cơ hoặc 0,5kg ngô, đậu tương, giai đoạn cây mang quả bón tăng lượng NPK lên 0,3kg.

Khoảng 25-30 ngày sau trồng, tiến hành uốn vít cây: Dùng dây mềm, chắc, to bản (2-3cm), không co dãn, buộc vít cây tại vị trí 3/4 thân (từ gốc), kéo ngả dần về hướng đã định, ghim cố định dây chặt xuống đất. Chú ý: Đu đủ là cây thân thảo, mềm, dễ gãy vỡ, nên cần uốn vít dần dần. Kéo vít như vậy sau khoảng 3 tháng cây đã đến độ nghiêng 30-35 độ so với mặt đất thì dừng lại, cố định chặt dây cho đến khi đưa chậu cây ra thị trường.

6. Phòng trừ sâu bệnh:

Cây đu đủ cảnh thường bị một số sâu, bệnh hại chính như: Nhện đỏ, rệp sáp, bệnh khảm, xoăn lá do virus, có thể phòng trừ bằng một trong các loại thuốc BVTV: Danitol 10EC; Ortus 5EC, Nitac 5EC; Supracide, Suprathion...

7. Một số chú ý khác:


Cách khắc phục rễ đu đủ mọc luồn qua các lỗ thoát nước gây nứt vỡ chậu: Chọn mua hoặc đặt làm các chậu có lỗ thoát nước nhỏ dưới 2cm; Đặt một miếng ngói hoặc cục xỉ than lên lỗ chậu; Sau trồng 2-3 tháng, định kỳ 15-20 ngày xoay chậu 1 vài lần.

Kinh nghiệm trồng đu đủ sai quả lâu cỗi

Kinh nghiệm trồng đu đủ sai quả lâu cỗi

Những người làm vườn giầu kinh nghiệm thường trồng đu đủ nơi mầu mỡ, cao ráo, cách mực nước ngầm thường xuyên từ 1,5m trở lên giúp rễ hoạt động thuận lợi.


Lựa chọn đu đủ cái ngay từ khi quả chín tự nhiên, chỉ lấy những hạt đen tuyền, chìm sâu tận đáy, loại những hạt lép, nổi sẽ đảm bảo cây cái vượt trội so với cây đực, những hạt cho cây đực còn lẫn sẽ cho cây đực khỏe, giao phấn tốt hoặc có thể điều khiển thành cây cái, cây lưỡng tính bằng cách cấn ngọn rễ cọc (hớt 1 phần 2 – 3cm thúc rễ chùm phát triển).

Loại ngay những cây giống khẳng khiu, thân thẳng tắp, èo uột, lá ít xẻ thùy. Chỉ đào đánh tạo bầu hoặc nhổ cây sau khi làm ẩm đất để "hưởng cái" nếu phát hiện cây đực (bằng cấn ngọn rễ cọc như trên). Sau đó nhúng bầu đất hoặc rễ vào tro bếp hoai hả (tro xó bếp) để "hồ" kích rễ "ăn ra" (tuyệt đối không được nhúng vào bùn tươi hoặc phân hóa học sẽ gây thâm rễ thối mầm).

Ra ngôi (trồng định vị) đu đủ cách gốc tối thiểu 3m để trưởng thành vừa khép tán, tránh "cây chạm lá" làm giảm năng suất và phẩm chất. Hố cần đào trước từ 10 – 15 ngày giúp đất hả, nỏ nâng cao điện ly giữa các hạt đất, sau khi ngấm nước trở lại sẽ giải phóng nhanh và nhiều khoáng dễ tiêu nuôi cây chóng "bốc".

"Nhử" rễ ăn ra bằng đất mầu tơi xốp (bùn khô hoặc sa bồi nỏ đập vụn trộn với phân hữu cơ hoai hả theo tỷ lệ 40% còn 10% là xỉ than đá nghiền thành bột và 10% là NPK vi sinh (nơi đất nghèo mầu).

Những cây cao quá 2m cần được chặt ngọn, trộn hỗn hợp phân trên làm ướt bao kín ngọn bằng nilon (tốt hơn quấn bùn rơm úp nồi đất như kinh nghiệm cổ truyền) ắt sẽ phân nhiều nhánh lộc mới ra quả ngay. Chọn tối đa 3 nhánh lệch xa nhau để nuôi, đu đủ "hồi xuân" lại tiếp tục cho năng suất vượt trội.

Trong mùa mưa bão cần tôn cao bóng tán để "nhử" rễ ăn lên, ấp đất cứng vào gốc. Nếu bị xiêu đổ cần dựng lại ngay thì rễ tái sinh nhanh, chắc gốc bền cây, liên tiếp cho bội thu.

Bệnh xoăn lá đu đủ

Bệnh xoăn lá đu đủ

Hiện nay chưa có biện pháp hữu hiệu nào trong việc chữa trị đối với hai loại bệnh do siêu vi trùng trên đây gây ra cho cây đu đủ


Để các bạn dễ so sánh, phân biệt chúng tôi xin nêu ra hai loại bệnh:

1. Bệnh đốm vòng (Papaya Ringspot Virus), còn gọi là bệnh đốm hình nhẫn: Đây là một bệnh rất phổ biến trên cây đu đủ ở nước ta, cùng với bệnh khảm chúng được coi là một trở ngại lớn nhất cho nghề trồng đu đủ (và cả nhiều nước khác). Có thể nói ở đâu có trồng đu đủ là ở đó có bệnh này. Bệnh do siêu vi trùng Papaya Ringspot Virus gây ra. Bệnh có thể gây hại ở nhiều bộ phận khác nhau của cây từ lá, trái đến thân và cuống lá.

Siêu vi trùng gây bệnh không truyền qua hạt giống, chúng lây bằng hai cách: Một là do tiếp xúc cơ giới (thông qua các vết thương cơ giới do trong quá trình canh tác con người vô ý tạo ra, do mưa gió gây xây sát hay do côn trùng hay động vật khác.). Hai là do côn trùng môi giới, chủ yếu là các lòai rệp thuộc họ Aphididae như Aphis gossipii, Aphis crasivora, đặc biệt là rệp đào (Myzus persicae), loài rệp này cũng thường gây hại nhiều cho các loại rau cải, bầu, bí, mướp, dưa… Bệnh lây lan rất nhanh, nhất là những cây được 5-6 tháng tuổi trở đi.

2. Bệnh khảm: Do siêu vi trùng Papaya Mosaic Virus gây ra2. Bệnh khảm: Do siêu vi trùng Papaya Mosaic Virus gây ra. Giống như đốm vòng, bệnh khảm cũng là một bệnh rất phổ biến trên cây đu đủ. Ban đầu phiến lá có nhiều vết xanh, vàng lẫn lộn. Nếu bệnh nặng lá biến dần sang mầu vàng, nhỏ lại, biến dạng, số thùy lá gia tăng, nhăn nheo, lá già bị rụng nhiều,chỉ chừa lại chùm lá non bị khảm vàng trên ngọn. Trái rất nhỏ, bị biến dạng, chai sượng, trên chùm trái thường có một số trái chảy nhựa thâm xanh lại thành vệt dọc. Trên thân (chủ yếu là phần còn non trên ngọn) và cuống lá có nhiều vết thâm xanh chạy dọc theo chiều dọc của thân, cuống lá .

Bệnh khảm cũng không truyền qua hạt giống, mà lây lan qua các vết thương cơ giới và qua môi giới truyền bệnh là một số loài rệp thuộc họ Aphididae (như đã nêu ở phần bệnh đốm vòng). Cây con mới trồng cũng có thể bị nhiễm bệnh, nhưng thường thấy bệnh xuất hiện và gây hại ở cây 1-2 năm tuổi trở đi.

Biện pháp phòng trị

Hiện nay chưa có biện pháp hữu hiệu nào trong việc chữa trị đối với hai loại bệnh do siêu vi trùng trên đây gây ra cho cây đu đủ, vì thế các bạn nên áp dụng kết hợp một số biện pháp sau đây để hạn chế tác hại của bệnh:
-Chọn cây giống khỏe không có triệu chứng đã bị nhiễm hai loại bệnh trên để trồng.
-Theo dõi, phát hiện và chặt bỏ sớm những cây đã bị bệnh đem tiêu hủy.
-Thường xuyên làm sạch cỏ dại trong vườn đu đủ.
-Không nên trồng xen các loại rau cải, bầu bí, mướp…trong vườn đu đủ. Hạn chế việc làm cho cây bị sây sát tạo vết thương cơ giới cho siêu vi trùng xâm nhập.
-Chăm sóc cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, khỏe mạnh giúp cây chống đỡ với bệnh được tốt hơn.
-Có thể phun xịt bằng một trong các loại thuốc sau đây để tiêu diệt côn trùng môi giới truyền bệnh như: Supracide, Suprathion, Bi58, Trebon, Bassa, Applaud… (sử dụng theo khuyến cáo trên nhãn thuốc). Đu đủ rất dễ bị cháy lá bởi các loại thuốc nhũ dầu, vì thế không được pha thuốc đậm đặc như tập quán bà con ta vẫn thường làm mà chỉ nên phun xịt thuốc vào lúc chiều mát

Thứ Hai, 7 tháng 8, 2017

Công dụng bất ngờ của hạt bơ

Công dụng bất ngờ của hạt bơ

Không chỉ thịt quả mà hạt bơ cũng là nguồn chất dinh dưỡng rất quý đối với sức khỏe như kháng viêm, chắc xương, thậm chí ngăn ngừa ung thư.

Theo Boldsky, quả bơ là thực phẩm có nguồn dinh dưỡng lành mạnh, phong phú.


Tuy nhiên không phải ai cũng biết rằng hạt bơ chứa rất nhiều chất bổ, thậm chí còn nhiều hơn trong thịt quả. Cụ thể, 70% lượng axit amin của loại quả này là nằm trong phần hạt.

Bạn có thể chế biến hạt bơ bằng cách ngâm rượu hoặc phơi khô, nướng chín và nghiền thành dạng bột để dùng trực tiếp hoặc trộn trong salad, sinh tố.

1. Chống ung thư

Hạt cũng như thịt quả bơ chứa nhiều chất chống oxy hóa. Chúng giúp cơ thể có thể loại bỏ các gốc tự do - nguyên nhân hình thành tế bào ung thư.

Ngoài ra, hạt còn chứa các hóa chất như flavonol - hỗ trợ cơ thể chống lại sự phát triển của tế bào ung thư.

2. Đặc tính kháng viêm

Hạt quả bơ có thuộc tính chống viêm nên rất tốt cho đường tiêu hóa, giúp giảm các vết loét nhỏ trong đường ruột, dạ dày. Vị chát và chất làm se trong hạt bơ có tác dụng điều trị tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa hiệu quả.

3. Chống lão hóa

Không chỉ thịt quả bơ mà hạt của nó cũng là thần dược chống lại sự lão hóa.

Các chất chống oxy hóa trong hạt bơ giúp cơ thể kiểm soát quá trình lão hóa của cơ thể, ngăn ngừa nếp nhăn và thúc đẩy sự hình thành của các tế bào mới.



4. Tốt cho sức khỏe tim mạch

Nguồn chất xơ có trong hạt bơ làm giảm cholesterol và tăng cường sức khỏe tim mạch.

Hơn nữa, các thành phần trong hạt bơ còn giúp tăng cường hệ miễn dịch và bảo vệ bạn khỏi những căn bệnh thông thường như cảm cúm nhẹ, nhiễm nấm ngứa...

5. Giúp xương chắc khỏe

Hạt bơ có vị chát và chất làm se, có tác dụng giảm đau khớp, cơ bắp khi bôi đắp tại chỗ.

Những bệnh nhân mắc bệnh khớp có thể dùng hạt bơ lột lớp áo vỏ, nướng qua hoặc luộc chín, phơi nắng 3-5 ngày, sau đó đập dập hoặc xay nhuyến để đắp vào vết sưng.

Ngoài ra, hạt bơ ngâm rượu có tác dụng giảm đau bắp khi vận động quá sức.

Trồng và chăm sóc bơ booth cho năng suất cao

Trồng và chăm sóc bơ booth cho năng suất cao

Bơ – một loại trái cây Việt Nam, có nhiều loại bơ khác nhau. Trong đó bơ booth được coi là món quà mà thượng đế ban tặng cho con người và được mệnh danh là vua của các loại bơ, vậy trồng bơ booth có khó và cần kỹ thuật gì để bơ phát triển ra trái tốt?


Xét về độ ngon, béo, dẻo, sáp, thơm, cả hương vị đậm đà béo ngậy khi nhai và cả dư vị đặc trưng của nó sau khi nuốt từng muỗng bơ vào cuống họng. Trái bơ có chứa hơn 14 loại vitamin và khoáng chất bao gồm canxi, sắt, đồng, magiê, phốtpho, kali, natri, kẽm mangan và selen. Trái bơ cũng rất giàu chất chống oxy hoá, có tác dụng ngăn ngừa hình thành các gốc tự do dẫn đến gây ung thư, đục thuỷ tinh thể, lão hóa da, giúp duy trì làn da săn chắc. Bơ còn là nguồn Folate rất quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh nở và đặc biệt quan trọng đối với thai kỳ ở những tuần đầu tiên vì 75% trẻ sơ sinh bị nứt đốt sống là do thiếu folate từ trong bụng mẹ. Chúng một trong rất ít loại trái không có cholesterol, mà lại có chứa chất béo đơn không bảo hòa, đây là loại chất béo tốt cho cơ thể giúp làm giãm hàm lượng cholesterol. Trái bơ có chứa hàm lượng protein cao nhất so với các loại quả khác, cao gần như tương đương với sữa. Ngoài ra, Trái bơ còn có hàm lượng muối thấp, chất xơ cao, có hàm lượng lutein cao, có chất carotenoid tự nhiên giúp mắt sáng và duy trì một làn da đẹp.

Kỹ thuật trồng bơ booth:

Cây bơ trồng được ở nhiều loại đất nhưng thích hợp nhất ở đất đỏ bazan. Địa hình đất trồng bơ bắt buột phải thoát nước tốt, đây là lý do miền Tây Nam bộ khó phát triển được bơ. Độ pH đất từ 5 – 6, trên đất cà phê cần bổ sung vôi. Ở vùng đất quá dốc thì thiết kế theo đường đồng mức, tạo băng để hạn chế xói mòn.

Cây bơ booth là giống bơ Mỹ có thể trồng được bằng hạt nhưng chất lượng và năng suất biến động rất lớn. Phần lớn diện tích bơ của Việt Nam đều được nhân giống từ hạt nên năng suất và chất lượng không cao. Tại các nước sản xuất bơ chính trên thế giới, cây bơ được nhân giống bằng phương pháp ghép. Cây ghép có khả năng cho quả sau khi trồng từ 3-5 năm trong khi đó cây trồng bằng hạt thường cần 5-7 năm mới cho quả.

Chăm sóc cây bơ booth:

Tưới nước: Cây bơ booth cần lượng nước vừa phải nhưng tưới nhiều lần. Có thể  tưới 10-15 ngày/lần trong mùa khô kết hợp tủ gốc, không cần tưới quá đẫm hay đầy bồn, kết hợp bón 2 lần phân trong mùa khô.

Bón phân: Cây con nên bón 4 -5 lần/năm, lượng bón tùy tuổi cây. Khi cây bắt  đầu cho quả, nhu cầu phân Kali cao hơn, và  lượng bón ổn định ở năm thứ 9, thứ 10. Các giai đoạn sinh trưởng của cây bơ mùa nghịch khác nhiều so với cây cà phê nên cần có chế độ dinh dưỡng cân đối theo tuổi và giai đọan.

Phòng trừ sâu bệnh: Vệ sinh đồng ruộng, cắt bỏ cành bệnh sau thu hoạch, đốt cành, lá. Phun các thuốc có gốc đồng với nồng độ theo hướng dẫn trên nhãn. Thời điểm phun: đầu mùa nở hoa, gần cuối mùa nở hoa, 3 – 4 tuần sau khi tất cả quả đã đậu.

Chúc bạn thành công!

Nguồn gốc cây bơ BOOTH

Nguồn gốc cây bơ BOOTH

Những cây bơ BOOTH đầu tiên ra quả vào năm 1927 và được nhân rộng phục vụ thương mại vào năm 1935.


Cây bơ là loại cây nhiệt đới, phân bố nhiều tại các nước Mexico, Cuba, Guatemala, Ấn Độ, Philipin…, Ở Mỹ (Một thị trường lớn về tiêu thụ bơ và các sản phẩm từ bơ), cây bơ đã được trồng rất sớm từ những năm 1850, chủ yếu ở hai vùng California và Florida. Phương pháp trồng thường là trồng cây thực sinh bằng hạt mang về từ Ấn Độ và Mexico. Ở hai khu vực này thậm chí còn xuất những Hiệp hội bơ, Hội nông dân trồng bơ…

Tuy nhiên từ những năm 1920, khi hàng hải phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho bơ nhập khẩu từ Cuba vào Mỹ. Gây ra áp lực lớn cho thị trường bơ nội địa. Dưới sức ép về giá cả và số lượng, nhu cầu tạo ra một giống bơ cho thu hoạch quả trái vụ để hạn chế cạnh tranh với bơ nhập khẩu là rất cấp thiết.

Những giống bơ có sẵn trong nước chủ yếu là giống thuần, cho thu hoạch vào mùa hè, cùng vụ thu hoạch với bơ từ Cuba và các nước vùng Ca-ri-bê. Do đó một chủ trang trại vùng Florida ở phía nam Dade County (giữa Miami và Homestead) tên William J. Krome đã quyết định phải tạo một giống bơ mới cho thu hoạch vào mùa thu – đông, với sự trợ giúp đắc lực của Will Booth. Họ đã tạo ra một giống bơ lai giữa giống Tây Ấn Độ và giống Guatemala. Các giống này được đặt theo tên của Will Booth và được đánh số từ 1 đến 8.

Ưu điểm của giống lai mới này là cho thu hoạch muộn hơn vụ bơ chính trong năm. Vụ chính thu hoạch trong mùa hè, trong khi đó giống mới thu hoạch vào mùa thu và mùa đông. Ngoài ra quả của giống mới này có vỏ dày, bảo quản được lâu mà vẫn đảm bảo hàm lượng chất béo trong phần thịt quả.

Những cây bơ BOOTH đầu tiên ra quả vào năm 1927 và được nhân rộng phục vụ thương mại vào năm 1935.
Theo thời gian, các giống bơ BOOTH dần được trồng rộng rãi ra khắp thế giới, và du nhập vào Việt Nam khoảng 10 năm trước (có thế sớm hơn), bị gọi theo kiểu phiên âm là “bơ bút, bơ búc” hoặc gọi sai là “bơ buk, bơ bush, bơ buss…”. Cây giống về Việt Nam có nhiều khả năng từ 2 nguồn chính là từ Mỹ và từ Úc. Trong các giống bơ BOOTH, bơ BOOTH 7 là giống có khả năng thích nghi tốt nhất với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng ở Việt Nam, cho năng suất và chất lượng quả ổn định hơn cả.


Bơ BOOTH có mấy loại

Như đã nói trên, bơ BOOTH có 8 giống chính được đánh số từ 1 đến 8 (Booth 1, Booth 2, Booth 3, Booth 4, Booth 5, Booth 6, Booth 7 và Booth 8). Hình thái quả có khác nhau giữa các giống bơ Booth (quả tròn hoặc hơi bầu và nhọn ở phần cuống) nhưng đều có đặc điểm chung là vỏ dày xanh bóng khi cắt có cảm giác hơi sạn, quả chín màu xanh, cơm và hạt dính sát vào nhau nhưng dễ tách.

Trong các giống bơ BOOTH thì giống Booth 5, Booth 7 và Booth 8 là thông dụng nhất. Quả to phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Riêng ở Việt Nam giống Booth 7 là thích nghi tốt nhất với khí hậu và thổ nhưỡng của nước ta. Có thể trồng đại trà và nhân rộng.


Tuy nhiên cũng cần nói thêm, trong nước người tiêu dùng rất chuộng giống bơ Booth do quả to nhưng ở những thị trường lớn như Mỹ thì họ lại chuộng các giống bơ Hass hoặc tương đương, dù quả nhỏ nhưng lượng chất béo cao và cơm có mùi thơm đặc trưng rất hấp dẫn.

Bơ Reed – Chìa khóa đưa người nông dân đến thành công

Bơ Reed – Chìa khóa đưa người nông dân đến thành công

Hiện không chỉ có những giống bơ thông thường mà nhiều Viện nghiên cứu đã đưa ra những giống mới điển hình là bơ Reed có năng suất cao từ đó giúp cuộc sống của người nông dân cải thiện hơn thậm chí là thành công hơn.

Bơ là loại quả quen thuộc có nhiều lợi ích cả với sức khỏe lẫn sắc đẹp lại đem lại hiệu quả kinh tế cao nên được trồng nhiều ở Việt Nam đặc biệt là tại hai tỉnh có khí hậu phù hợp cho sự phát triển của cây nhất là Đắk Lăk và Đăk Nông.

Bơ Reed có xuất xứ từ đâu

– Chẳng phải chỉ riêng hàng hóa mà cả giống cây trồng cũng phải được quan tâm đến nguồn gốc, xuất xứ để vừa tránh trường hợp cây hại lại có thể tùy theo điều kiện tự nhiên để gieo trồng cho thích hợp.

– Về mặt nguồn gốc bà con có thể hoàn toàn yên tâm bởi giống bơ Reed đến từ Mĩ và được gieo trồng lần đầu tiên ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Tây Nguyên do Viện cây trồng EaKmat nhập về. Sau khi trồng thử nghiệm, các kĩ sư đã phải ngỡ ngàng vì cây phát triển rấttốt, dễ thích nghi và có thể đưa vào nhân giống để tăng diện tích gieo trồng.

Đặc tính sinh trưởng cần phải biết của giống bơ Reed cũng tương tự như bơ booth.

– Ưu điểm của giống bơ Reed là có thể chống chịu được với điều kiện khí hậu của nhiều vùng khác nhau từ lạnh cho đến nóng ẩm mà vẫn có thể cho năng suất cao quan trọng nhất là bà con cần gieo trồng đúng cách là cây có thể phát triển và thích nghi nhanh chóng.

– Hoa của giống bơ Reed giống với bơ Booth 7 đều được xếp vào hoa nhóm B nên sẽ tung phấn vào khoảng 9 giờ sáng đồng thời hoa cái sẽ nhận phấn và thời điểm 3 giờ chiều nên bà con cần lưu ý nếu muốn tăng sản lượng cho cây.

– Với trọng lượng trung bình khá cao từ 280 đến 500 g/ quả ứng với 1kg khoảng 3 quả, giống bơ này phù hợp với trọng lượng cũng như kích thước chuẩn để xuất khẩu ra các nước khác.

– Hiệu quả kinh tế của cây khá cao khi nếu trong điều kiện phát triển tốt có thể cho năng suất trung bình từ 120 đến 160 kg mỗi cây.

– Hơn nữa nhờ lớp vỏ sần sùi bên ngoài nhưng lại dau và dầy, dễ bóc mà quả sẽ không dễ bị dập nát, hư hỏng trong quá trình vận chuyển đặc biệt là vận chuyển đường dài nên bà con có thể yên tâm cũng như giảm bớt gánh nặng chi phí.

– Với người tiêu dùng thì chất lượng bên trong mới là yếu tố đáng quan tâm. Phần thịt quả thơm ngon với mùi hạt dẻ đặc trưng, màu vàng kem bắt mắt lại béo mà không có xơ với tỉ lệ thịt cao đến 75% đã thể hiện chính xác nhất chất lượng của giống cây này. Đặc biệt hạt nhỏ lại khít với phần thịt nhưng vẫn có thể bóc dễ dàng nên càng được người tiêu dùng ưa chuộng hơn.

Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2017

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mận

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mận

Mận là giống cây ăn quả nếu được trồng chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật mận sẽ cho hoa quả theo ý muốn, bán được giá cao.


I. Giới thiệu

Mận là giống cây ăn quả nếu được trồng chăm sóc đúng qui trình kỹ thuật mận sẽ cho hoa quả theo ý muốn, bán được giá cao.

Các giống mận và nhân giống

Mận tam hoa: Có quả vỏ tím xanh, ruột tím đậm

Mận hậu: Quả tím có ruột xanh lơ chuyển sang vàng, ruột vàng. Ra hoa tháng 2, chín tháng 7. Khối lượng quả: 30-40 quả/kg

Mận đỏ: Vỏ quả tím, ruột tím. Là giống mận địa phương ăn có vị chua, không ngọt như các giống mận đường.

Mận chua: (còn gọi là mận đắng) vỏ quả màu tím vàng, ruột vàng, là giống mận địa phương có vị chua đắng, sức sinh trưởng khoẻ, thường được làm gốc ghép.

II. Kỹ thuật trồng và chăm sóc:

1. Kỹ thuật trồng:

a. Giống: chọn cây khỏe mạnh không sâu bệnh.

b. Mật độ: Cây cách cây 4- 4,5m, hàng cách bằng 4-5m.

c. Đất trồng:

- Vùng đất trũng :Làm mô trồng có thể rộng 0,8-1m, cao 0,4-0,8m. Mỗi mô có thể bón 0,5kg vôi bột 0,3kg phân lân, 5kg phân hữu cơ hoai mục.

- Vùng cao, đất gò đồi nếu:

Đất bằng phẳng đào hốc có kích thước 0,5 x 0,5 x 0,5. Bón mỗi hốc 0,5kg vôi bột 0,2kg phân lan, mỗi ít phân hữu cơ. Vun mô rộng 0,8m, cao 0,3m.

Đất dốc, cách làm hốc trồng và bón phân như trên. Nếu độ dốc nhỏ hơn 7%, hốc trồng ngang bằng mặt đất, độ dốc lớn hơn, độ dốc lớn hơn, hốc trồng có thể thấp hơn mặt đất 10-20cm.

d. Cách trồng:

- Móc một hốc nhỏ ở giữa vị trí trồng. Rọc đáy túi dựng bầu. Đặt cây vào vị trí, và rọc một đường từ trên xuống để lấy túi đựng bầu ra. Lấp đất giữ chặt cây.

- Cắm cọc cố định cây (cột cây bằng dây nilon).

2. Kỹ thuật chăm sóc:


a. Giữ ẩm: Sử dụng các vật liệu dễ tìm như rơm rạ, cỏ khô,… phủ xung quanh gốc để giữ ẩm.

b. Tưới tiêu: Cung cấp nước cho cây thường xuyên nhất là ở thời kỳ mới trồng và khô hạn kéo dài. Cây chuẩn bị ra hoa, cần giữ cho gốc cây khô ráo. Thời kỳ mang quả, cây rất cần nước để nuôi quả.

c. Tỉa cành tạo tán:

- Tỉa bỏ cành vượt, cành già cỗi, sâu bệnh.

- Khống chế chiều cao cây khoảng 3,5m, tạo thông thoáng giúp cây quang hợp tốt.

d. Bồi đất cho cây: Hàng năm nên bồi thêm đất cho cây vào đầu mùa khô như bùn mương, đất khô,… dầy 2- 3cm, xung quanh tán cây kết hợp với việc bón phân hữu cơ hay phân hóa học.

e. Bón phân: Cần tham khảo thêm tài liệu và kinh nghiệm bón phân trong điều kiện canh tác thực tế.

Phân hữu cơ : Hàng năm nên bón cho cây 5-10kg.

Phân hóa học :

- Năm thứ nhất: Bón cho cây khoảng 500 gram phân NPK 16-16-8. Chia ra 4-5 lần bón trong năm.

- Năm thứ hai: Bón gấp đôi lượng phân năm thứ nhất, chia ra 3-4 lần bón.

- Thời kỳ cho hoa quả: Bón 1,5- 3kg phân NPK 20-20-15, chia ra làm nhiều lần bón.

- Thu hoạch xong có thể bón tiếp cho cây 0,5-1 kg phân NPK 20-20-15 cho cây nhanh chóng phục hồi.

III. Sâu bệnh :

1. Sâu rầy gây hại:

a. Sâu ăn lá: Là loài sâu ăn tạp, thường cắn phá đọt non làm bộ lá còi cọc xơ xác.

Dùng các loại thuốc bảo vệ thực vật để xử lý : Vifast 5ND, Desic 2,5 ND, Trebon 10ND …

b. Rầy mềm, rệp sáp, rệp dính:
Tấn công chồi non, cuốn lá cuốn quả, … làm cành lá quăn queo, bị muội hóng làm đen quả …

Có thể dùng Bassa 50ND, Supracide 40ND, Polytrin 10ND …

c. Sâu đục thân, đục cành: Ấu trùng đục vào cành, thân làm cho cành bị khô có thể bị gảy ngang. Đầu tiên chúng khoét những đường hang ngoằn - nghèo, hay đụt sâu vào thân cây, cây suy kiệt dần rồi chết.

Có thể dùng Vibasu 10H, Vicarp 10H, Regent … để bón định kỳ xung quanh gốc, hay sử dụng các loại thuốc có tính lưu dẫn để xịt phòng cho cây như: Basudin 50EC, BiAn 40EC, … (Lưu ý thời gian cách ly).

d. Sâu đục trái: Chúng đục sâu vào bên trong quả, đùn phân ra ngoài làm giảm phẩm chất quả. Dùng các loại thuốc sâu có độc tính thấp để phun phòng ngừa như: Polytrin P440 ND, Vertmec 1,8 ND, …

e. Ruồi đục trái: Gây hại trên quả ở giai đoạn trái gần chín. Ruồi đẻ nhiều trứng vào quả, trứng nở ra giòi, đụt khoét thành hang làm như hư thối. Vào mùa mưa quả thường bị hư hại rất nặng nề.

Dùng chất dẫn dụ sinh học Vizubon - D để bẩy ruồi đực, làm giảm khả năng sinh sản của ruồi cái. Với cách diệt ruồi đụt quả này sẽ không gây ô nhiễm môi trường, giúp tăng chất lượng của cây quả.

2. Bệnh:

Trên mận, bệnh gây hại không quan trọng lắm. Trong canh tác chỉ lưu ý phòng bệnh vào giai đoạn sau khi đậu quả, có thể sử dụng : Ridomyl MZ 72 BHN, Tilt 250 ND, Score 250 ND … liều dùng theo sự hướng.

Sâu đục trái mận và biện pháp phòng trừ

Sâu đục trái mận và biện pháp phòng trừ

Loại màu hồng là sâu đục trái mận. Sâu này có thể gây hại quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu trong mùa khô


Cây mận cứ đến mùa là trái bị một loại sâu nhỏ như đầu chân nhang, màu đỏ hồng đục vào bên trong gây hại nhiều, chúng thải ra những cục phân nhỏ li ti màu đen. Về mùa mưa, lại bị một loại sâu có màu trắng vàng, dài cỡ năm, bảy milimét (giống như con dòi) làm thối trái.

Loại màu hồng là sâu đục trái mận. Sâu này có thể gây hại quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu trong mùa khô.

Loại sâu trắng như dòi là ruồi đục trái. con mẹ của chúng là một loài ruồi màu nâu nhạt, nhỏ hơn ruồi nhà một chút, nhìn bề ngoài có vẻ giống con ong. Chúng dùng ống đẻ trừng chọc thủng vỏ trái rồi đẻ trứng vào bên trong. Sau khi đẻ khoảng 2 ngày thì trứng nở thành sâu non như bạn mô tả, gây hại nặng chủ yếu trong mùa mưa.

1. Ngăn chặn cả hai loại

Bao trái bằng các loại bao chuyên dùng từ khi vừa tượng trái. Biện pháp này vừa bảo vệ được trái, vừa không tốn tiền mua thuốc, công phun xịt và không gây ngộ độc thuốc trừ sâu đối với người phun thuốc và người sử dụng.

Cắt tỉa những cành, nhánh không cần thiết, tạo cho vườm mận luôn sạch sẽ, thông thoáng, hạn chế nơi trú ngụ của con trưởng thành.

2. Đối với sâu đục trái

Thường xuyên kiểm tra vườn mận, nếu thấy khoảng 5% số bông hoặc 5% số trái vừa mới tượng bị sâu gây hại thì sử dụng một trong những loại thuốc trừ sâu như: Decis 2,5EC, Fastac 5EC, Vifast 5ND, Sherpa 10EC/25EC, Cyperan 5EC/10EC/25EC, Polytrin C440EC, Polytrin P440EC... để phun xịt. Tuyệt đối không phun xịt thuốc khi trái sắp được thu hoạch, tuân thủ thời gian cách ly của thuốc để đảm bảo an toàn cho người sử dụng.

3. Đối với ruồi đục trái

- Thu hái trái sớm hơn bình thường, không để trái chín quá lâu trên cây.

- Thu nhặt hết những trái rụng ở gốc cây đem tiêu hủy để diệt dòi còn nằm bên trong.

- Dùng Vizubon-D để dẫn dụ và tiêu diệt con trưởng thành (con ruồi).

Không nên xịt thuốc hóa học trực tiếp lên trái mận, vì vỏ trái rất mỏng, thuốc dễ ngấm vào trong trái, gây nguy hiểm cho người ăn. Mặt khác, khi trái mận sắp thu hoạch mới bị dòi gây hại, nếu xịt thuốc lúc này chắc chắn sẽ không đảm bảo thời gian cách ly của thuốc.

Ngoài ra, có thể thay giống mận của bạn bằng cách ghép giống mận ấn Độ lên gốc mận cũ, vì giống mận ấn Độ không những cho năng suất cao, ăn ngon, ngọt... mà chúng còn có vỏ dày, thịt chắc nên ít bị ruồi đục trái gây hại.

Kỹ thuật nhân giống vô tính cây Mơ

Kỹ thuật nhân giống vô tính cây Mơ

Đối với cây mơ thì nhân giống bằng phương pháp ghép là tốt nhất.


Chiết cành

Chăm sóc cây mẹ trước khi chiết: Chọn cây mẹ sai quả, quả ngon, không bị bệnh, có tán cân đối. Sau khi thu hoạch quả xong tiến hành làm cỏ, cắt tỉa cành già, cành mọc sâu trong tán, phun thuốc chống chảy gôm, bón phân cho cây với lượng: 20-30kg phân chuồng, 150-200g urê, 400g phân lân, 200g kali cho mỗi gốc mơ 6-8 năm tuổi. Rắc đều phân xung quanh và cách gốc 50cm, xới nhẹ và lấp phân. Nếu trời không mưa thì tưới vài lần cho cây. Nên tiến hành chiết mơ vào tháng 4-5 sau khi thu hoạch quả.

Giá thể bó bầu: Dùng đất thịt nhẹ và rơm mềm sạch với tỷ lệ 7 phần đất, 3 phần rơm, trộn đều với nước sao cho hỗn hợp đạt độ ẩm 70%, nắm thành hình quả trứng chiều rộng 5-6cm, chiều dài 7-8cm. Không nhào đất ướt quá. Chuẩn bị giấy nilon kích thước 20x25cm, dây nilon dùng để buộc, dài 60-80cm.

Chọn cành, khoanh vỏ: Chọn cành bánh tẻ 6-8 tháng tuổi mọc ở bìa tán có chiều dài 50-60cm, đường kính cành đạt 0,8cm. Dùng dao sắc khoanh vỏ, cạo sạch tượng tầng, bôi một lượt thuốc kích thích ra rễ, để ráo 2-4 giờ rồi tiến hành bó bầu. Chú ý đối với cây mơ sau khi đã khoanh vỏ, không "phơi cành" nhiều ngày như những cây ăn quả khác mà bó bầu ngay trong ngày. Sau khi bó bầu, dùng giấy nilon bó bao quanh và lấy dây buộc cố định bầu lại.

Sau khi bó bầu 45-60 ngày, nhìn qua nilon bọc bầu thấy rễ ra rất nhiều. Khi rễ chuyển màu từ trắng sữa sang vàng nâu thì có thể cắt cành chiết. Cắt cành chiết vào lúc mát trời, chọn nơi râm mát, kín gió để cắt sửa cành lá, rạch bỏ nilon rồi ra ngôi vào túi bầu đất mới. Đặt bầu cây trên các luống đất ngoài vườn ươm, tưới nước, làm giàn che và chăm sóc cây cẩn thận. Sau khi ra ngôi 1-2 tháng thì đem cây đi trồng (hoặc đem ghép nếu dùng cây chiết làm gốc ghép).

Ghép cành

Đối với cây mơ thì nhân giống bằng phương pháp ghép là tốt nhất.

Chuẩn bị cây gốc ghép: Dùng hạt cây song mai hay mơ gié địa phương gieo làm gốc ghép. Chọn những quả mơ chín kỹ, chà sạch thịt quả lấy hạt, rửa sạch phơi khô kỹ, cất bảo quản hạt đến tháng 10-11 thì đem gieo. Trước khi gieo, ngâm hạt trong nước ấm 40-42 độ C trong 4 giờ, ngâm tiếp trong nước thường 24 giờ rồi đem gieo vào đất, mật độ gieo 400-500 hạt/m2. Khi cây con có 2-3 lá thật thì ra ngôi vào bầu hoặc vào thẳng đất, khoảng cách 20x10cm. Sau khi ra ngôi cần bón phân chăm sóc tốt, khi cây cao 40-50cm, đường kính gốc đạt 0,8-1cm thì tiến hành ghép.

Ghép và chăm sóc cây sau ghép: Nên ghép cho mơ vào thời gian từ tháng 4-8, không kéo dài thời vụ ghép sang tháng 9-10.

Lấy mắt ghép trên cây mẹ 4-6 năm tuổi có năng suất cao, chất lượng quả tốt, không sâu bệnh. Chọn những cành bánh tẻ có đường kính 0,6-0,8cm để lấy mắt, mỗi cành lấy 10-12 mắt. Cành ghép cắt bỏ hết lá, cuốn giẻ ẩm, giữ trong bẹ chuối tươi có thể ghép trong 5-7 ngày. Đối với cây mơ nên ghép theo phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ, vị trí ghép cách mặt đất 15-20cm.

Sau khi ghép 10-15 ngày có thể mở dây buộc mắt ghép, và 7 ngày sau thì cắt ngọn gốc ghép: vết cắt ở phía trên mắt ghép 5cm. Sau khi cắt ngọn gốc ghép 15-20 ngày thì mầm ghép sẽ mọc. Khi mầm ghép mọc hoàn chỉnh 1 đợt lộc thì tiến hành bón phân, làm cỏ, thường xuyên cắt cành dại để cây tập trung dinh dưỡng nuôi mắt ghép. Khi cành ghép cao 50-60cm thì đánh cây con đem trồng.

Nên thu hoạch cây con vào mùa xuân hoặc mùa thu. Việc vận chuyển cây giống đi xa cần chú ý che nắng che mưa, không được làm vỡ bầu, nhất là khi trồng mơ vụ hè thu.

Kỹ thuật trồng mơ

Kỹ thuật trồng mơ

Nếu mơ ghép, hoặc trồng bằng hạt trong v­ườn ­ương khi ra ngôi có thể đánh bầu hoặc trồng rễ trần. Đánh bầu tất nhiên dễ sống hơn nh­ưng rất tốn công và khó vận chuyển đi xa.


Khi trồng nhiều trong sản xuất lớn, tốt nhất là trồng rễ trần vào tháng 11, 12, khi mơ đã rụng lá hoặc ngừng hẳn sinh tr­ưởng, vừa đỡ tốn công, mang đi xa đ­ược, vừa dễ đảm bảo tỉ lệ sống cao. Kỹ thuật trồng không có gì đặc biệt. Chỉ cần chú ý thâm canh ngay từ đầu vì mùa sinh trưởng của cây mơ tập trung nhất vào tháng 1 đến tháng 4, nếu không đủ độ ẩm, đủ chất dinh d­ưỡng thì sinh trư­ởng của cây mơ trồng tháng 11 sẽ chậm đi một năm.

Mùa trồng mơ là mùa khô, đất trồng mơ lại là những đất đá vôi, đất phù sa cao, phân bón lại phải rất hoai nên cần thiết phải t­ưới thật đẫm và t­ưới xong phải ủ gốc. Trồng rễ trần càng cần phải t­ới nhiều và dù có tốn lao động cũng phải đảm bảo t­ưới cho đủ.

Đốn tỉa

Mơ thuộc loại cây rụng lá hàng năm. Lợi dụng lúc cây ngừng sinh tr­ưởng để tỉa bỏ cành già, cành bệnh rất có lợi. Tốc độ sinh tr­ưởng của cây mơ lớn, nhất là về phía ngọn, cành mơ lại nhỏ, nhiều mắt và mắt nào cũng có khả năng bật lên thành cành khi đủ n­ước đủ phân; nếu không tỉa thì số cành sẽ quá nhiều, cây trở thành rậm rạp, không lợi cho việc ra hoa kết quả, sâu bệnh nhiều. Đặc tính sinh lý của cây mơ lại là ít rụng quả tự nhiên, nếu số quả quá nhiều, quả nhỏ, chất l­ượng kém cây bị kiệt sức, năm sau không hình thành được nụ hoa dẫn tới hiện trạng cách niên. Ng­ười ta đã tính rằng chỉ riêng về mặt sản l­ượng, nếu đốn tỉa đúng cách có thể tăng đư­ợc 30% và hơn nữa. Đốn mơ gồm các b­ước chính sau đây:

- Đốn tạo hình: 2 năm đầu.

- Đốn tạo quả: từ năm thứ ba. Loại bớt cành quá nhỏ, cắt ngắn cành to, mọc quá dài, giúp hình thành những cành trung bình thư­ờng nhiều hoa quả.

- Đốn trẻ lại: bắt đầu từ năm thứ 9 - 10. Tập trung đốn vụ đông cắt cành mọc dày, yếu. Cành khung cành to vẫn để lại.

- Đốn phục hồi: đốn đau cả cành to chỉ để lại gốc và các cành khỏe nhất.

Quản lý n­ước, phân

Cây mơ ra hoa tháng 12, 1 quả lớn vào tháng 2, 3 là những tháng khô nhất trong năm. Do đó, có năm quả non rụng nhiều vì hạn. Tuy vậy nông dân ta không t­ới chỉ trồng mơ vào những chỗ đất mát. Khi mở rộng diện tích phải trồng ở đất cao, đất đá vôi xa sông suối mơ sẽ thiếu nư­ớc. T­ưới chắc chắn sẽ có lợi, đặc biệt nếu mơ lại ghép nên gốc mận và gốc đào là những cây rễ ăn t­ượng đối nông.

Tuy nhiên t­ới mơ khó, vì rễ mơ ăn sâu, lại rất mẫn cảm với úng n­ước; nếu ­ới hơi quá liều l­ượng, đất hơi khó thoát n­ước là v­ườn mơ sẽ bị nhiều loại bệnh: thối rễ, chảy gôm, bệnh thân lá v.v... Độ ẩm trong đất thay đổi thất th­ường cũng dễ gây bệnh chảy gôm v.v... Do đó nguyên tắc t­ới cho mơ là: không tưới nhiều, không để n­ước đọng, giữ cho độ ẩm đất ổn định và cần chú ý tưới bổ sung nhất là tháng 11, 12 và tháng 2 nếu những tháng này thiếu mư­a. T­ưới nhiều nhất hai ba lần một vụ, mỗi lần tư­ới không v­ợt quá 500 m3/ha và chú ý t­ưới nhiều nư­ớc khoảng 2-3 tuần lễ trư­ớc khi quả chín.

Mặc dù ở các vùng trồng mơ ngư­ời ta không bón, cây mơ thực ra lấy đi nhiều chất dinh d­ưỡng làm cho đất kiệt đi khá nhanh, muốn có sản l­ượng đáng kể cần thiết phải bón.

Bón bùn phơi khô, đập nhỏ rất tốt, đối với mơ cũng như­ các cây lâu năm khác, nh­ưng tốn nhiều lao động và khi trồng nhiều sẽ không có bùn mà bón.

Bón phân hữu cơ cũng tốt. L­ượng bón 40 - 50 kg phân hoai 1 gốc. Loại phân bón: nếu đất xấu bón phân lợn, phân bắc; l­ượng t­ương đối nên bón phân trâu, bò vì nhiều đạm cây mơ dễ nhiễm bệnh.

Số lần bón một năm 2-3 lần khi cây còn nhỏ, vào tháng 9, 10, 2, 3 và 6, 7. Khi cây mơ đ­ương ra quả chỉ bón 2 lần, một lần vào tháng 4, 5 sau khi thu quả, một lần vào tháng 9, 10 tr­ước khi ra hoa.

Phân khoáng nên bón như­ sau: cây nhỏ bón khoảng 90 - 100 kg N/ha và 60 - 80 kg P2O5/ha. Cây đã ra quả, cứ mỗi tấn quả lấy đi khoảng 8-3-10 kg NPK; vậy nếu muốn đạt sản l­ượng 20 tấn/ha phải bón khoảng 160 kg N, 60 kg P2O5 200 kg K2O.

Nếu bón hỗn hợp cả phân chuồng, cả phân khoáng thì giảm bớt l­ượng phân khoáng lấy cơ sở tính là 1 tấn phân chuồng tốt chứa 3 kg N, 2 kg P2O5 và 4 kg K2O.

Cây mơ nhỏ có khi thiếu Bo, Zn và lúc này còn bón thêm phân có Bo, Zn.

Dù đã bón phân trong điều kiện miền Bắc n­ước ta m­ưa rào, gây xói mòn, nắng gió Lào làm cho độ nhiệt cao, cản trở hoạt động của các vi sinh vật - đặc biệt loại hút đạm. Vì vậy, những năm đầu, cây mơ còn nhỏ, không nên để đất trồng mà phải thực hiện trồng xen, trồng gối: ngô, cao l­ương, cỏ hòa thảo, rau, đậu hay cây họ Đậu trồng làm phân xanh phải cân nhắc tùy điều kiện cụ thể.

Nếu đất tốt, cây mơ mới trồng còn nhỏ, lại sẵn lao động (ví dụ bờ sống Đáy) thì giữa hai hàng mơ có thể trồng nhiều loại màu cạn nh­ư ngô, đậu, lạc, một số loại rau... nh­ưng cần chú ý mấy điểm sau:

1. Chung quanh gốc mơ phải sạch cỏ, phủ rơm rác - những hoa màu trồng xen cũng phải làm cỏ.

2. Chú ý quan sát sâu bệnh trên cây trồng xen cũng bị những sâu bệnh giống cây mơ. Theo tài liệu n­ước ngoài những cây họ cà nhất là cà chua, ớt hay bị bệnh héo, vậy ng­ười ta tránh không trồng cà chua, ớt xen hoặc luân canh với mơ, xen dư­a cũng không tốt.

3. ở miền Bắc những tháng 5, 6, 7, 8, 9 nóng nhất và m­a nhiều nhất, tháng 12, 1, 2 lạnh nhất và nhiều gió bấc là những tháng đất cần đ­ược che phủ nhất. Cố gắng sắp xếp thời vụ để lúc này cây trồng xen có nhiều cành lá, che phủ đất tốt.

ở những đất xấu, nên trồng cây phân xanh, nhất là những cây lâu năm, như­ đậu hồng đáo, cỏ style. Đậu hồng đáo đặc biệt thích hợp vì, cũng nh­ư mơ, ưa đất đá vôi, trồng vào tháng 2, 3, một năm có thể cắt 2, 3 vụ, mỗi vụ sản lượng chất xanh có thể đạt 8 - 10 tấn, sau khi cắt có thể mọc lại và có thể sống 2, 3 năm ở đất t­ương đối tốt.

Chất xanh cắt đ­ược có thể dùng tủ gốc, có thể dùng làm thức ăn cho gia súc, cũng có thể dùng để ủ phân.

Phòng trừ sâu bệnh những sâu chính của mơ là:


Bọ cánh cứng mình dẹt (Adoretus compressus): là một loại bọ đa thực ăn lá non nhiều cây ăn quả lâu năm như­ng đặc biệt thích lá những cây mơ còn non. Ban ngày ẩn ở dư­ới các cành lá khô trên mặt đất, các khe nứt, đêm mới ra ăn. Trừ bằng các loại lân hữu cơ Bi 58, Monitor v.v....

Rệp: đủ màu - đen, xám, xanh hoặc nâu, hại nhiều nhất mùa xuân khi các đọt bắt đầu phát triển làm cho lá xoăn lại, vàng, rồi rụng: trị bằng sunfat nicotin, hoặc lân hữu cơ.

Rệp sáp: nhiều loại, hoặc có vảy hoặc không, cắm vòi vào cành, vào cuống quả hoặc quả, màu trắng, màu nâu v.v... làm cho cành, lá, quả mất nhựa, còi cọc. Trị bằng Polysulfur canxi, Applaud, Mipc....

Nhện: làm cho lá dày lên nhỏ lại, đọt cũng phình to ra, không phát triển được, màu trắng phớt nâu hồng; có thể trị bằng Kelthane, Danitol, Phosalone....

Một số sâu bộ Cánh phấn và bọ vòi voi bộ Cánh cứng đục quả non: phòng trị bằng lân hữu cơ.

Bệnh chảy gôm (Pseudomonas...) biểu hiện thành những vết sẹo hình bầu dục, có nhựa chảy; phòng trị bằng thuốc Bordeaux hay oxiclorua đồng phun 3 lần.

Bệnh héo Verticillium alboratrum: ch­a xác định đ­ợc chắc chắn ở Việt Nam, nh­ng ở các n­ớc ôn đới, gây hại lớn cho hạnh Nấm sống trong đất lâu năm, xâm nhập vào cây qua bộ rễ làm cây lớn héo nhanh chóng rồi chết. Phòng trị bằng luân canh, không trồng xen các cây họ cà, trồng một số loại cây phân xanh, làm sạch đất v.v....

Bệnh thối rễ (Armillaria và Rosellinia): nấm gây bệnh phát triển trên rễ tạo nên một màng tơ nấm trắng giữa vỏ và gỗ ở rễ; sau đó thối đi. Rễ nhỏ thối trư­ớc, rễ to sau và khi có nhiệt độ cao cây mơ chết héo nhanh chóng. Phòng trị chủ yếu bằng giống chống bệnh, bằng luân canh với các loại cây không mẫn cảm với bệnh.

Giống mận và phương pháp nhân giống

Giống mận và phương pháp nhân giống

Để tiết kiệm giống, nên ghép mắt, bóc vỏ bỏ gỗ đi. Nếu cành ghép quá nhỏ, khó bóc mắt có thể ghép cành, cắt vát rồi luồn xuống d­ới vỏ gốc ghép.


1. Giống mận

Mận chua: Danh từ chung để chỉ nhiều giống mận, trồng đã từ lâu ở miền đồng bằng. Quả chín đỏ hoặc vàng. Hoa ra sớm, đầu tháng 1 khoảng 1 tháng trước Tết âm lịch. Quả chín vào tháng 5, 6, chất lượng trung bình hoặc thấp vì không những chua mà có vị chát, đắng. Sản lượng khá nhưng cao thấp tùy năm và tùy nơi. Tính thích nghi mạnh.

Mận thép: Trồng phổ biến ở các xã ven sông Hồng vùng Yên Bái, Bắc Phú Thọ, có giống chín sớm ra hoa trước Tết quả chín vào đầu tháng 5, màu vàng, nặng 10-25g. Hạt nhỏ, thịt giòn, hơi chua.

Mận hậu: Trồng nhiều ở vùng Bắc Hà, M­ờng Kh­ơng tỉnh Lao Cai. Quả to khối lượng 20-30g. Khi chín màu xanh vàng. Thịt rất giòn, độ chua thấp nên vị ngọt. Khi chín quả nhũn nên không mang đi xa, và cũng không dùng đóng hộp được, là một loại chín trung bình ở các vùng cao. Đ­a xuống trồng ở các vùng thấp, lớn chậm, ra hoa kết quả khó.

Mận Tam Hoa: còn gọi là mận Quảng Đông, mới nhập sang Việt Nam khoảng hơn 10 năm. Tán cây hình ô, rỗng giữa vì không có thân chính. Quả tròn, màu vàng, ruột đỏ thắm, nặng trung bình 20-30g, quả to nhất nặng 60g. Chất lượng vào loại tốt nhất hiện nay, độ chua vừa phải (0,4-0,6%). Dùng làm nguyên liệu đồ hộp rất tốt.

2. Nhân giống

a) Dùng hạt

Nên bỏ phương pháp này và chỉ nên trồng hạt để sản xuất gốc ghép.

b) Dùng mầm rễ

Một đặc điểm của mận là rễ ăn nông; khi làm cỏ, l­ỡi cuốc chạm phải rễ, thì ở đầu rễ bật lên những cây con ở xa gốc mẹ có khi tới 4-4m, có thể đánh đi trồng. Cũng có thể đặt kế hoạch chặt đứt rễ để chủ động tạo ra các mầm rễ. Chú ý không áp dụng biện pháp này đối với các cây mận ghép vì gốc ghép là cây mận dại và mầm rễ cũng là của mận dại.

c) Ghép

Gốc ghép có thể là mận, đào, lê dại, cây chua chát, tóm lại những cây họ Hoa hồng.

Nên chọn gốc ghép tùy theo đất trồng; nếu đất sâu thoát nước và muốn mận chóng ra quả thì ghép lên gốc đào; nếu đất sâu, hơi hạn và không chua thì ghép lên gốc mơ, nhưng trường hợp này chậm ra quả và hay có hiện trạng gốc bé thân to, nếu đất hơi nông nhưng đủ độ ẩm và muốn mận sống lâu, tuy ra quả muộn một chút thì ghép lên gốc mận. ở miền Bắc Việt Nam, có lẽ ghép trên gốc mận chua là thích hợp vì:

- Dễ kiếm hạt.

- Hạt mận chua đã nhiệt đới hóa nên dễ nảy mầm.

Một số vấn đề cần chú ý khi ghép mận là:


1. Ương cây mận con từ hạt tuy dễ hơn đào nhưng khó hơn đa số các loại hạt khác. Phải phơi trong râm, ủ một thời gian ở cát ẩm độ 4,5 tháng sau đó mới nảy mầm được. Trong khi ủ, không tủ rác, không t­ới quá ẩm, vì dễ bị thối hạt. ở Lạng Sơn có một loại đào dại gọi là mắc phăng mọc bên suối, quả nhỏ, chất lượng quả kém, nhưng lấy hạt gieo mọc nhanh và nhiều hơn mận, vậy có thể là một gốc ghép tốt.

2. Mận chín tháng 6, hạt ủ từ tháng 7 đến tháng 10, đem trồng ở vườn ghép; tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau mới nảy mầm, nếu chăm sóc tốt thì tháng 7, 8, 9 năm sau mới ghép được, tức là sau khi trồng ở vườn ghép 9, 10 tháng; lúc này mắt ghép ở cây giống đã chín, ghép thuận tiện. Nếu gốc ghép còn bé, phải đợi lâu hơn nữa. Vì vậy nguyên tắc là phải chăm sóc gốc ghép thật tốt để gốc ghép lớn nhanh, chóng đạt tiêu chuẩn ghép.

3. Mắt ghép lấy ở cành xiên, tuổi từ 4 tháng đến 6, 7 tháng non hoặc già quá đều không tốt.

Vì mận ra nhiều cành, khi cắt cành để lấy mắt ghép, cành tốt nhất chỉ to bằng cây bút chì, thông thường bé hơn nên khóc bóc mắt. Vậy ở những vườn ­ơng lớn, khi ghép hàng vạn cây nên có các vườn gỗ ghép riêng nghĩa là những vườn mận trồng để lấy gỗ ghép làm giống không phải là vườn trồng để lấy quả; chăm sóc tốt vườn gỗ ghép để có nhiều cành, nhiều mắt đạt tiêu chuẩn.

4. Mận rất dễ ghép, ghép mắt hay cành đều được
. Để tiết kiệm giống, nên ghép mắt, bóc vỏ bỏ gỗ đi. Nếu cành ghép quá nhỏ, khó bóc mắt có thể ghép cành, cắt vát rồi luồn xuống d­ới vỏ gốc ghép.

5. Thời vụ ghép: từ tháng 3, 4 đến tháng 9, 10 đều có thể ghép được. Tháng 3, 4 khó lấy mắt ghép vì đầu mùa mận đ­ơng ra hoa kết quả, ch­a ra cành mới và mắt ở các cành cũ thì phần lớn đều đã bật lên thành búp. Ghép tháng 6, 7 thì tuy dễ lấy mắt ghép, dễ góc vỏ nhưng độ nhiệt cao, m­a nhiều, tỉ lệ sống không cao. Thuận lợi nhất là ghép tháng 8, 9 cuối mùa m­a, cây còn nhựa, trời đã mát, vừa dễ lấy mắt ghép, vừa dễ sống.

6. Viện Cây ăn quả ở Phú Hộ và những người trồng đào chơi hoa Tết vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Hà Nội kiếm cây đào con hoặc mận con làm gốc ghép như­ sau: tháng 5, 6 lên Sapa nhổ cây con mọc dại ở d­ới gốc cây đào hay mận. Mỗi chuyến đi một người có thể nhổ được hàng ngàn cây, cắt bớt lá, buộc từng túm mang về ­ơng, chỉ sau 3, 4 tháng là có thể ghép. Theo cách này không phải ủ hạt, nhưng cây con yếu, gốc ghép khó đạt tiêu chuẩn.
Nguồn: Trồng cây ăn quả ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp