Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

Kỹ thuật trồng cam đường canh

Kỹ thuật trồng cam đường canh

Cam đường canh là giống có năng suất cao, khả năng thích nghi tương đối rộng, trồng được trên đồi , núi , vùng đồng bằng và ven biển thoát nước. Tính chống chịu với sâu bệnh hại khá tốt. Nếu trồng mật độ dày và thâm canh ngay từ đầu có thể đạt năng suất 40-50 tấn/ha.

Cây cam đường canh là một giống cam cho chất lượng quả hàng đầu hiện nay với hàm lượng các vitamin và khoáng chất rất cao . Cam đường canh được trồng ở hầu khắp các địa phương trong cả nước, cho năng xuất và hiệu quả kinh tế rất cao . Tuy nhiên trồng và chăm sóc cây cam đường canh đòi hỏi bà con phải có kinh nghiệm và kỹ thuật thì mới thành công được .

Cam đường canh là loại cây sinh trưởng khoẻ, có  ít gai hoặc không có gai, cây phân cành mạnh,  cành nhỏ, có dạng hình lá to hoặc lá nhỏ , nhưng hình thái giống nhau: mép lá cam đường canh gợn sóng dài , đuôi lá nhọn và dài, gần như không có eo lá. Quả cam đường canh hình cầu hơi dẹp, vỏ mỏng, nhẵn, ít túi dầu tinh, khi chín cam đường canh có màu đỏ gấc, đa số chín vào trước tết Nguyên đán 1 tháng. Thịt quả cam đường canh mọng nước, ít  hạt vách múi hơi dai, ít xơ bã, ngọt mát nếu ,có vị ngọt đậm.

Cam đường canh là giống có năng suất cao, khả năng thích nghi tương đối rộng, trồng được trên đồi , núi , vùng đồng bằng và ven biển thoát nước. Tính chống chịu với sâu bệnh hại khá tốt. Nếu trồng mật độ dày và thâm canh ngay từ đầu có thể đạt năng suất 40-50 tấn/ha. Cam đường canh là loại quả có giá trị dinh dưỡng, giá trị kinh tế cao  nên hiện nay trên địa bàn tỉnh Hòa Bình  và tỉnh Bắc Giang được trồng ở khắp các huyện .

Cây cam đường canh đang được trang trại cây giống Xuân Khương nhân giống vô tính theo phương pháp ghép cành , chiều cao cây cam đường canh giống từ 50-60cm , cây đẹp và khỏe mạnh.

KỸ THUẬT TRỒNG CAM ĐƯỜNG CANH

1. Chọn giống

Cây giống phải khoẻ, mập không mang mầm mống bệnh, có bộ rễ khoẻ , cây giống có chiều cao trung bình 40-60cm.

2. Thời vụ

Cam thường được trồng vào đầu (tháng 2) hoặc cuối mùa mưa (tháng 9) là thích hợp nhất.

3. Làm đất, đào hố, khoảng cách và cách trồng

Làm đất: Đất trồng cam phải cao ráo, có hệ thống thoát nước tốt để tránh ngập lụt hàng năm. Ở vùng đồng bằng, vùng trũng phải đào mương, lên luống. Trung du và miền núi nên chủ động nguồn nước để tưới khi cây bị khô hạn.

Đào hố: Hố trồng có kích thước 60x60x50cm. Bón lót 50kg phân chuồng hoai mục + 1kg lân + 1kg vôi bột cho mỗi hố, trộn kỹ với đất trước khi trồng 30 ngày.

Khoảng cách và cách trồng: (3 x2,5) (luống cách luống 3m, cây cách cây 2,5m). Đặt bầu cây ngang mặt đất, chính giữa hố, vun đất nhẹ lên mặt bầu và nén chặt xung quanh để cây đứng vững. Trồng xong tưới đủ nước để cây nhanh bén rễ. Nếu trời nắng nóng phải che cho cây. Nơi có gió mạnh phải buộc cây vào cọc nhỏ cắm chính giữa hố để cây không bị gió lay.

Chú ý: Khi cây còn nhỏ, chưa giao tán, nên trồng quanh cây đậu đỗ để tận dụng đất, hạn chế cỏ dại và dùng làm phân cải tạo đất.

4. Tưới tiêu

Thường xuyên tưới đủ ẩm cho cây nhất là từ khi mới trồng đến khi cây 3 tuổi. Thời gian cây ra hoa, đậu quả và nuôi quả, nếu thiếu nước quả sẽ đậu ít và bị rụng nhiều. Thừa nước cây dễ bị bệnh thối rễ cũng gây hiện tượng vàng lá, chết cây.

5. Tỉa cành, tạo tán

Cắt bỏ các cành vượt, cành mọc ra từ gốc ghép, cành sâu bệnh, dập gãy. Nuôi dưỡng những cành cần thiết để tán cây đều đặn, cân đối. Việc tỉa cành tạo tán bắt đầu từ khi cây cao 0,5- 0,6m tạo khung thân hợp lý ban đầu vững chắc, cành được phân bố dạng ngôi sao trên thân cây để không che khuất ánh sáng lẫn nhau. Những cành già cỗi sau một thời gian cho quả cũng cần chặt bỏ nuôi những cành non mới cho quả trong những năm tiếp theo.

Trồng cây chắn gió có tác dụng làm giảm sự bốc hơi nước, giảm sự cọ sát của các quả với cành và làm chậm sự di chuyển của các loại côn trùng, nhất là rệp và rầy chổng cánh. Hàng cây chắn gió được trồng chủ yếu ngăn được các hướng gió chính, cách hàng cây cam đầu tiên ít nhất 5m để tránh cạnh tranh dinh dưỡng. Cây chắn gió có thể trồng  bằng keo tai tượng, keo lá tràm, keo dậu,….

6. Bón phân

Sau một tháng cây hồi phục dùng nước phân lợn hoặc nước giải đã ủ pha loãng 10 lần với nước lã hoặc nước phân đạm 1%, 15-20 ngày tưới 1 lần.

Lượng phân bón cho 1 cây: 10kg phân chuồng + 100g ure + 300g supelân + 100g kali

Cách bón: tháng 9, tháng 11 bón 100% hữu cơ + 100% lân; từ ngày 15/1 đến 15/3: 40% urê + 40% kali (nhằm thúc cành xuân); tháng 5 bón: 30% urê + 30% kali; tháng 7-8 bón: 30% urê + 30% kali (bón cành thu)

Bón phân thời kỳ kinh doanh (Từ năm thứ 3 trở đi): với cây vào kinh doanh từ tháng 11 hạn chế tưới nước và dùng thuổng hay mai xẻ xung quanh gốc, cách gốc 25-30cm. Chặt đứt rễ xung quanh, phơi gốc 10-15 ngày cho cây cằn, lá vàng hơi héo sau đó bón cho 1 cây từ: 10-40kg phân chuồng hoai mục + 0,5-1 kg supe lân, bón quanh tán lấp kín phân.

Chú ý: Khi xén rễ phải dùng dụng cụ sắc, không làm xơ, dập rễ, lay động gốc ảnh hưởng đến cây, sau đó tưới giữ ẩm cho cây. Khi cây ra hoa kết quả tránh tác động vào gốc, ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu hoa, quả.

Khi quả đã ổn định, dùng phân bắc, phân chuồng hoai mục hay đậu tương xay nhỏ (1kg/gốc) ngâm từ 10-15 ngày, pha loãng 5 lần tưới cho cây. Cứ 20 -25 ngày một lần tưới, bã ngâm vớt lên dải đều quanh tán lấp đất nhẹ. Có thể kết hợp dùng phân bón qua lá phun theo nồng độ khuyến cáo vào các tháng 3,5,6,8 và luôn giữ ẩm cho cây.

 SÂU BỆNH HẠI CAM VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ

1, Sâu hại cam

1.1.  Sâu vẽ bùa

Sâu phát triển nhiều lứa gối nhau quanh năm.Thời gian  phát triển trứng từ 2-8 ngày, sâu non 7-20 ngày, nhộng 6 – 12 ngày, bướm sống trên 7-10 ngày.

Sâu vẽ bùa gây hại kéo theo theo vi khuẩn Xanhthomonas citri xâm nhiễm qua đường sâu đục, làm lá nhanh rụng.

– Biện pháp phòng trừ: Phun thuốc vào các đợt lộc ra rộ. Có thể chọn các loại thuốc như Padan 0,1%, Decis 0,1%; Polytrin 0,1%; Selecron 0,1%…

1.2.  Rầy chổng cánh

– Đặc điểm: Rầy non và rầy trưởng thành chủ yếu sống ở cánh lá non. Rầy chích hút dịch cây, làm héo và rụng lá non. Nhiệt độ 18 – 250c (mùa xuân và mùa thu) rầy phát triển mạnh. Rầy cái đẻ trứng ở mặt lá non, bình quân mỗi con đẻ 800 – 900 trứng. Rầy non nở ra bám vào mặt lá, ít di động. Mỗi năm có 8 -10 lứa, thời gian trứng 4-12 ngày, rầy non 10 -35 ngày, rầy trưởng thành có thể sống đến 6 tháng.

Ngoài tác hại trực tiếp, rầy chổng cánh còn là môi giới truyền bệnh vàng lá greening, bệnh nguy hiểm nhất hiện nay trên cam.

– Biện pháp phòng trừ: Phun thuốc trừ rầy non và trứng khi lộc non mới ra( chú ý 2 vụ lộc xuân và lộc thu). Có thể dùng các loại thuốc như Trebon 0,1%; Applaud 0,1%, Regant 0,1%… phun 2-3 lần/vụ cách nhau 7 ngày.

1.3.  Rệp cam

– Đặc điểm: Từ đầu mùa xuân, khi lộc non của cam bắt đầu phát triển thì rệp cái có cánh từ nơi cư trú bay đến đẻ ra rệp non. Những rệp non phát  triển trong 7 -10 ngày thì đa số trở thành rệp cái dạng không cánh. Dạng này có sức sinh sản rất mạnh, mỗi con 1 ngày đêm có thể đẻ được 20 -25 rệp non do đó mà tập đoàn rệp phát triển rất nhanh. Chúng ít di động, chỉ tập trung ở ngọn non, chích hút dịch cây, làm lá và chồi non cong queo. Rệp lan sang cây khác nhờ kiến.

Ngoài gây hại trực tiếp, rệp cam còn là môi giới truyền bệnh Tristcza virus, chất bài tiết của rệp cũng là môi trường thích  hợp cho nấm đen phát triển, gây hại cho cây.

– Biện pháp phòng trừ: Dùng tay thu ngắt các lá hoặc cành có rệp để tiêu diệt, khi rệp sinh sản mạnh có thể chọn các loại thuốc để diệt như Bi 58 0,1%, Tre bon 0,1%, Sherpa 0,1%; Fastac 0,1%…

1.4.  Sâu đục cành

– Đặc điểm: Bọ trưởng thành xuất hiện từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 7 phần  nhiều vào buổi sáng. Con cái đẻ trứng vào nách lá, trên trứng có lớp sáp bảo vệ, sâu non nở ra gặm vỏ cành để sống. Sâu lớn sẽ đục vào phần gỗ, mới đầu đục hướng lên, về sau lỗ đục hướng xuống dưới vào đến cành to, cứ từng đoạn sâu lại đục lỗ ăn ngang để đùn phân và bột gỗ ra ngoài. Sâu đẫy sức sẽ đục ra sát vỏ cây để lột nhộng. Thời gian phát triển của sâu non khoảng 8 -10 tháng. Trưởng thành vũ hoá và đẻ trứng trong khoảng 2 tháng. Hàng năm trên 1 cây có thể bị hàng chục con sâu đục làm chết cành.

– Biện pháp phòng trừ: Cắt cành héo đem đốt khi sâu non còn ở cành nhỏ. Khi sâu đục vào cành to rồi thì phải bơm thuốc sâu theo các lỗ để thuốc ngấm vào bên trong diệt sâu. Các  loại thuốc trừ sâu thông thường đều có thể diệt sâu này.

1.5.  Sâu nhớt

– Đặc điểm: Sâu trưởng thành xuất hiện cùng với lộc xuân, ăn lá non. Con cái đẻ trứng từng đôi mội dính liền nhau vào mép lá, có thể  đẻ tới vài trăm trứng, sau khoảng 01 ngày trứng nở.

Sâu non mới nở gặm thịt lá chỉ để lại biểu bì, Sau tuổi 2-3 ăn thủng lá, bài tiết chất nhầy trên lưng, các lá bị hại héo khô và rụng. Sâu non phát triển khoảng 20 ngày thì đẫy sức và tìm nơi để lột nhộng như chỗ vỏ thân, cành to nứt nẻ, thân cây có rong rêu hoặc trong đất ở độ  sâu 1 cm ngay dưới tán cây cam.

Con trưởng thành vũ hoá, tìm gặm vỏ quả non. Mỗi năm sâu nhớt phát triển 6-7 lứa, trong đó lứa 1 (vụ xuân) hại nặng nhất.

-Biện pháp phòng trừ: Phòng trừ cùng với các đợt trừ sâu vẽ bùa. Sâu non rất dễ bị tiêu diệt bằng các loại thuốc trừ sâu thông thường như Padan, Trebon, Supracide, Fastac…

1.6.   Châu chấu

Đặc điểm: Trưởng thành xuất hiện từ đầu mùa hè kéo dài đến mùa đông thì mật độ giảm đi. Châu chấu sống rải rác vài ba con trên tán cây, chúng ăn phiến lá, tuy bay được nhưng khi gặp động vật thì chủ yếu giả chết rơi xuống thấp để lẩn tránh. Con  cái để trứng trong đất và sâu non sinh sống trong đất, ăn rễ cây.

Mỗi năm có 9-10 lứa. Đối với cam thì bọ trưởng thành ăn lá còn sâu non ăn rễ.

Biện pháp phòng trừ: Thu bắt bằng tay các sâu trưởng thành để diệt. Xới xáo đất dưới tán cây để phá môi trường sinh sống của sâu non. Phun thuốc kết hợp với trừ sâu vẽ bùa và các loại sâu khác.

1.7.  Sâu xanh

Đặc điểm: Bướm bay lượn tìm hút mật hoa, đẻ trứng từng quả một ở các lá non. Sau 5-7 ngày sâu non nở ra và ăn những phiến lá non. Càng lớn sâu non ăn càng khoẻ, chúng ăn hết phần thịt lá trừ lại gân chính. Sâu non sống lẻ từng con một, trên 1 cành có thể gặp 4-5 con. Khi động, sâu non không bò đi mà giương 2 sợi đỏ trên đầu, đồng thời tiết ra mùi hắc.

Khi đẫy sức sâu non bám vào cành, quấn tơ ngang mình và lột nhộng, không làm kén. Quanh năm đều có sâu nhưng gây hại nặng nhất là vụ hè thu.

Biện pháp phòng trừ: Bắt giết sâu non, phun thuốc trừ diệt kết hợp với trừ sâu vẽ bùa và các loại sâu khác.

1.8.  Ruồi đục quả

Đặc điểm: Mùa hè vào buổi sáng ruồi xuất hiện đi tìm thức ăn trên các quả chín. Ruồi thích ẩn trong tán lá rậm rạp, khi có động bay khá nhanh để lẩn tránh. Khi cam chín ruồi đẻ trứng vào vỏ quả. Sau 2-4 ngày dòi nở chui sâu vào trong phần múi quả để ăn tép cam cho tới khi đẫy sức. Quả cam bị hại sẽ thối và rụng. Khi đẫy sức dòi chui ra ngoài vỏ, cong thân búng bật đi xa để rơi xuống đất lột nhộng ở độ sâu 1-2cm, sâu non phát triển trong 8-18 ngày, nhộng 9-10 ngày, ruồi vũ hoá chui lên và tiếp tục gây hại.

Trong mùa đông, vào những ngày ấm áp, nhiệt độ trên 150C ruồi vẫn hoạt động. Khi cam chưa chín ruồi sinh sống ở các cây có quả khác. Trên vườn cam quýt ruồi xuất hiện từ tháng 6-11, mỗi năm có 7-8 lứa.

– Biện pháp phòng trừ: Dùng bẫy bả có chất dẫn dụ trộn với thuốc trừ sâu để diệt ruồi trưởng thành. Phun thuốc trừ sâu vẽ bùa và các loại sâu khác trong các tháng 7-8-9 cũng diệt được ruồi. Nhặt hết quả rụng chôn sâu để diệt dòi bên trong.

1.9.  Nhện đỏ

Đặc điểm: Nhện chích hút dịch trong các lá già, lá bánh tẻ làm lá mất màu xanh bóng, biến thành màu xám bạc. Nhện đẻ trứng trong mùa hè, mỗi con để tới 40-50 trứng rải các bên gân chính của lá. Vòng đời mùa hè gần 3 tuần, về mùa đông tới 5 tuần. Nhện ưa thích nơi khô, tuy có quanh năm nhưng mật độ cao là về mùa khô hanh.

Biện pháp phòng trừ: Chú ý chăm sóc bón phân đầy đủ cho cây không để khô hạn kéo dài. Khi mới có nhện, cần phun các loại thuốc như Ortus 0,1%, Pegasus0,1%, comite 0,1%. Khi phun chú ý phun ướt đều cả 2 mặt lá.

1.10. Nhện trắng

Đặc điểm: Nhện chích hút cả lá và quả nhưng chủ yếu hại quả làm quả có những vết rám, chậm lớn, ít nước.

Những năm mùa xuân ấm mùa hè thu ít mưa bão thì nhện trắng phát triển sớm và gây hại nhiều.

Biện pháp phòng trừ: Khi quả có đường kính 1cm nếu rải rác trên cây bắt đầu có vết nhện hại thì cần phun thuốc ngay. Thuốc trừ nhện trắng như đối với nhện đỏ.

2. Bệnh hại cam

2.1.  Bệnh chảy gôm

Triệu trứng và tác hại:  Bệnh thường phát sinh ở sát gốc cây làm vỏ gốc thối mục. Bóc phần gỗ bị bệnh ra ta thấy nấm gây hại cả vào phần gỗ của gốc cây. Nhựa cây từ các vết bệnh chảy ra, khô lại tạo ra những giọt dịch sánh đặc như gôm.

Hiện tượng chảy gôm còn thấy ở trên thân cành cấp 1,2. Nấm bệnh còn gây hại làm thối rễ con hoặc làm thối quả.

Quan sát toàn cây: Lá vàng trước tiên từ các lá già. Có thể vàng từng cành khi nấm bệnh mới gây hại từng cành. Lá rụng hàng loạt làm chết cành, chết cây.

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh và lây lan trong mùa mưa, triệu chứng bệnh rõ rệt làm chết cành, chết cây, thối quả vào cuối mùa mưa và đầu mùa khô.

Phòng trừ:

Dùng gốc ghép kháng bệnh như cam 3 lá, quýt Cleopatre, cam chua, chấp… chú ý  hệ thống thoát nước tốt cho vườn cây. Tỉa cành tạo tán hợp lý để tán lá thông thoáng. Khi bệnh mới xuất hiện trên vườn nên phun thuốc Rhidomil hoặc Aliette 0,1% từ 1-2 lần. Xử lý từng vết bệnh ở gốc cây hoặc trên cành bằng cách cạo sạch phần vỏ và gỗ bị bệnh sau đó quét thuốc Rhidomil 0,2% vào vết bệnh.

2.2.  Bệnh sẹo

Triệu trứng và tác hại: Lúc đầu vết bệnh xuất hiện giống như bệnh loét nhưng chỉ sau vài ngày vết bệnh phát triển có đặc điểm riêng: Trên lá vết bệnh sần sùi về một phía, phía đối diện thì lõm làm lá quăn queo. Trên quả vết bệnh nổi hình gai ngắn, quả méo mó không phát triển được.

Vùng bệnh: Bệnh có ở tất cả các vùng trồng cam quýt của nước ta. Các tỉnh phía Bắc có mức độ bệnh nặng hơn.

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa gây hại cho đến hết mùa mưa.

Phòng trừ: Phun Boocdo 1%,  Sumi-eight 0,1% hoặc Tiltsuper 0,05% khi các đợt lộc ra trong vụ hè và vụ thu.

2.3.  Bệnh thán thư

Triệu trứng và tác hại: Bệnh xâm nhập vào lá tạo nên các vết cháy xám dần dần loang rộng làm phiến lá khô, trên có các chấm đen li ti ở cành bệnh phát triển thành vệt màu xám trắng, trên đó cũng có các chấm nhỏ li ti, nhiều khi bao kín xung quanh cành làm cành chết khô. Bệnh phát triển cả trên quả, phần lớn xâm nhiễm vào cuống quả rồi lan rộng xuống vỏ quả có khi vết bệnh chiếm 1/2 vỏ quả màu nâu nhạt.

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ mùa hè cho đến hết năm, ẩm độ cao làm bào tử nấm dễ nẩy mầm xâm nhiễm vào mô cây. Bệnh hại trên quả từ khi quả bắt đầu chín và quả thối và rụng hàng loạt.

Phòng trừ:  Tỉa cành tạo tán thích hợp để cây thông thoáng. Cắt bỏ sớm các cành bệnh đem đốt, chú trọng biện pháp này khi quả sắp chín. Kết hợp phun thuốc phòng trừ các bệnh khác, dùng boocdo 1% hoặc BenlatC 0,1%.

2.4. Bệnh phấn trắng

Triệu chứng và các tác hại: Trên lá và cành non vụ xuân có lớp mốc trắng bao phủ. Làm lá biến dạng, kém phát triển, bệnh nặng làm chết cành non.

Mùa bệnh: Bệnh xuất hiện trong vụ xuân .

Phòng trừ: Phun thuốc khi bệnh mới xuất hiện vào đầu tháng 3. Có thể dùng thuốc Boocdo 1%, BenlatC 0,1%; Mancozeb 0,2% hoặc Tiltsuper 0,05%, chú ý phun ướt đều tán lá, đặc biệt chồi và lá non.

2.5.  Bệnh muội đen

Triệu chứng và tác hại :

Trường hợp 1: Do nấm Capnodium citri

Ở mặt trên của lá, trên cành và cả trên vỏ quả… được phủ đều bởi một lớp bồ hóng màu đen (không tạo thành từng đốm). Khi lấy tay, lấy giẻ lau hoặc dùng nước rửa thì lớp bồ hóng này sẽ hết. Do làm giảm diện tích quang hợp nên ảnh hưởng chung đến các quá trình trao đổi chất của cây, làm cho cây sinh trưởng kém, hoa quả ít và giảm chất lượng.

Trường hợp 2 : Do nấm Mcliola citri

Ở mặt dưới  của những đốm to màu đen hơi tròn, kích cỡ vài mm đến 1cm. Trên vỏ quả các đốm đen cỡ 1 mm, đốm càng già thì màu đen càng sậm hơn, bệnh nặng các vết có thể liền nhau thành đám lớn. Khi cạo bỏ lớp bồ hóng đi sẽ thấy mô ở phía dưới vết bệnh thâm đen. Bệnh này làm cây sinh trưởng kém, hoa quả ít và giảm chất lượng.

Mùa bệnh: Từ đầu mùa mưa đến cuối năm

Phòng trừ: Trường hợp 1: Nấm phát sinh và phát triển trên lớp chất thải của rầy, rệp. Do vậy nếu phòng rầy, trừ rệp tốt sẽ hạn chế nấm phát sinh. Có thể trừ rầy rệp bằng cách phun một trong các loại thuốc sau: Supracide, Suprathion, Bi58, Sumialpha, Tre bon, Fastac, Applaud, Polytrin …

Trường hợp 2: Nấm phát sinh và phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao, thiếu ánh sáng. Do vậy phòng trừ bằng cách trồng cam  trên các nền đất cao, dễ thoát nước, trồng mật độ vừa phải, thường xuyên tỉa cành tạo tán để cành cây thông thoáng. có thể  dùng thuốc phòng trừ bệnh như : Boocdô 1%, BenlatC 0,1%, Tiltsuper 0,05% … khi bệnh mới phát sinh.

2.6.  Bệnh đốm dầu

Triệu chứng và tác hại:

Trên lá có nhiều vết bệnh màu đen phân bổ rải rác khắp phiến lá. Bệnh nặng các  vết bệnh liên kết với nhau, làm lá kém phát triển, bị rụng hàng loạt. Cây bệnh sinh trưởng còi cọc, năng suất  và chất lượng quả giảm sút

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa và gây hại đến cuối năm

Phòng trừ: Phun thuốc phòng sớm khi bệnh mới xuất hiện. Có thể sử dụng boocdo 1%, Benlat C 0,2%, Tiltsuper 0,05 %, sumi-eight 0,1 %, Anvil 0,1%.

Chăm bón đầy đủ để cây sinh trưởng khoẻ tăng sức chống bệnh

2.7.  Bệnh loét

Triệu chứng và tác hại: vi khuẩn gây nên các đốm bệnh trên lá, trên cành non và trên quả, làm lá nhanh rụng, cành chết, quả khô hoặc không phát triển được

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa gây hại cho đến hết mùa mưa

Phòng trừ: Tỉa bỏ cành bệnh, lá bệnh đem đốt. Tạo tán lá thông thoáng. Phun phòng bằng thuốc Boocdo 1%, Starner 0,1 % hoặc Kasuran 0,1 % khi bệnh mới phát sinh

2.8. Bệnh vàng lá Greening

Triệu chứng và tác hại : bệnh vàng lá geenning có triệu chứng gần giống như hiện tượng cây thiếu dinh dưỡng

Trên lá: Lá bị vàng từng cành, phiến lá có những vết đốm vàng nhạt hoặc phần lớn phiến lá vàng, gân lá vẫn còn xanh. Các lá mới ra  phát triển không bình thường, lá nhỏ đứng thẳng, hiện tượng lá gân xanh rõ dần. Các lá bị bệnh nặng có hiện tượng sưng gân lá, sờ tay thấp ráp, lá nhanh rụng làm trơ cành dẫn đến làm chết cành sau đó chết cây.

Trên hoa, quả: Hiện tượng ra hoa trái vụ là phổ biến nhưng không đậu quả hoặc chỉ đậu một ít quả. Quả nhỏ, tâm quả bị vẹo, hạt lép, ít nước, màu sắc quả khác thường, từng đám vỏ xanh xen lẫn  màu vàng khi quả chín.

Trên rễ: Rễ cây bệnh có những vết thối hỏng trên rễ con và rễ tơ, lớp vỏ rễ dễ dàng bong ra khỏi lõi rễ. Chức năng hút nước và dinh dưỡng của rễ vị hạn chế, do vậy làm cây còi cọc, kém phát triển.

Phòng trừ :

Trồng mới bằng các cây giống sạch bệnh. Cây giống được mua từ các cơ sở nhân giống có uy tín. Không mua cây giống không rõ nguồn gốc hoặc cây giống không đảm bảo sạch bệnh.

Phòng trừ rầy chổng cánh tốt để chống tái nhiễm bệnh. Ngoài chích hút nhựa cây, rầy chổng cánh còn là môi giới truyền lan bệnh vàng lá greening. chỉ cần 1 rầy bệnh cũng có thể truyền được bệnh cho cây. Do vậy phải chú ý phòng trừ triệt để. Rầy chổng cánh thường có mật độ cao vào những đợt cây ra lộc non, nên chú ý phun thuốc 1-2 lần  trong mỗi đợt lộc cách nhau 7-10 ngày, nhất là đợt lộc xuân và lộc thu. Có thể dùng một trong các loạt thuốc sau: Applaud M 0,1 %, Trebon 0,15 %, …

Tăng sức chống chịu bệnh của cây bằng biện pháp sau:

Bón phân đầy đủ cho cây cả phân đa lượng (đạm, lân, kaly, can xi) và phân vi lượng ( magiê, mangan, kẽm, đồng, bo, sắt …)

Chủ động tưới tiêu để cây không bị khô hạn hoặc bị úng nước

Tỉa cành  thường xuyên tạo cho cây có bộ tán lá cân đối, thông thoáng

Xử lý đối với vườn cây bị nhiễm bệnh vàng lá greening:

Đối với vườn mới trồng: Loại bỏ cây bị  bệnh, trồng lại cây sạch bệnh.

Đối với vườn đang cho quả: Thường xuyên kiểm tra, phát hiện sớm và cưa bỏ cành bệnh.  Khi vườn cây bị bệnh nặng, không còn hiệu quả kinh tế phải chặt bỏ cả vườn, trồng cây khác vài năm sau đó mới trồng lại cam.

2.9.  Bệnh tàn lụi Tristeza

Triệu chứng và tác hại:

Trên thân cành: Có những vết lõm  vào phần gỗ

Trên lá:  Lá nhỏ, sinh trưởng kém. Khi soi ngược ánh sáng thấy gân lá có các đoạn trong mờ. Lá vàng dần cả cây, bệnh nặng làm gân lá vị sưng sần sùi, toàn cây héo rũ và tàn lụi nhanh chóng.

Phòng trừ: Chọn gốc ghép kháng bệnh hoặc chịu bệnh để sản xuất  cây giống. Tạo điều kiện tốt ngay từ đầu để cây sinh trưởng khoẻ, tăng khả năng chống chịu bệnh. Phòng trừ  triệt để rệp Toxoptera sp – môi giới truyền lan bệnh. Loại bỏ sớm những cây bệnh để hạn chế lây lan trên diện rộng.

2.10.  Bệnh vảy vỏ  Exocortis viroid

Triệu chứng và tác hại: Trên phần gốc ghép nhiễm bệnh vỏ gốc  bong ra  làm cây kém sinh trưởng, khô héo dần.

Phòng trừ :

ở vùng đã có bệnh, không nên dùng gốc ghép để sản xuất giống. Dụng cụ chiết, ghép nhân giống phải được khử trùng cẩn thận trong Hypochlorride Na 0,5 % hoặc trong dung dịch nước Zavel 10%. Phát hiện sớm và loại bỏ cây bị bệnh.

2.11. Bệnh tróc vỏ thân , chảy gôm Psorosis virus

Triệu chứng và tác hại: Psorosis là bệnh phức tạp truyền qua mắt ghép, làm cho thân và cành bị tróc vỏ dẫn đến chảy nhựa cây ra ngoài. Từ vết bệnh có thể tìm thấy cả nấm Phytophthora. Cây bị bệnh sinh trưởng, phát triển kém, ảnh hưởng năng suất, chất lượng.

Phòng trừ :

Dùng cây giống sạch bệnh để trồng. Phát hiện sớm và loại bỏ cây bệnh

THU HOẠCH, BẢO QUẢN:

1. Thu hoạch

Thời điểm: Thu hoạch khi vỏ quả chuyển từ mầu xanh sang màu vàng khoảng 20-30 diện tích vỏ quả. Cần thu hoạch đúng thời vụ để tạo cho cây phân hóa mầm hoa tốt, thu hái quả vào những ngày râm mát.

Kỹ thuật: Dùng kéo chuyên dụng cắt cuống quả, thu hái quả nhẹ nhàng tránh tổn thương cơ học. Quả được cho vào thùng hoặc sọt có lót giấy, xốp, vận chuyển về nơi tập kết để phân loại, lau khô vỏ quả và tiến hành xử lý bảo quản.

2. Bảo quản

Bảo quản trong hòm gỗ phủ lá chuối khô: Quả được thu hái không bị rập nát, có kích cỡ tương đối đồng đều, được rửa sạch bằng nước vôi trong, để khô 5-7 ngày, bôi vôi cuống quả, xếp vào giữa hòm, khoảng cách các quả được chèn bằng lá chuối khô, đậy nắp giữ kín gió.

Bảo quản trong túi nilon đục lỗ: Quả được thu hái không bị rập nát, có kích cỡ tương đối đồng đều, được rửa sạch bằng nước vôi trong, để khô 5-7 ngày, bôi vôi cuống quả, cho vào túi nilon đục lỗ để nơi thoáng mát./.

Cách để cam ra hoa trái vụ không sử dụng thuốc kích thích

Cách để cam ra hoa trái vụ không sử dụng thuốc kích thích

Để khắc phục những yếu kém trên có thể áp dụng những bước chủ yếu sau để tiến hành cho cam ra hoa trái vụ nhưng không sử dụng thuốc kích thích và thuốc trừ sâu mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao.

Hầu hết các nhà làm vườn đều biết kỹ thuật cho cam, quýt, buởi ra hoa trái vụ nhưng đa số là sử dụng các loại thuốc kích thích, thuốc bảo vệ thực vật... Tuy nhiên, nếu ta quá lạm dụng các loại thuốc này thì chẳng khác nào con dao hai lưỡi do giá thành cao, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khoẻ của người sử dụng, làm giảm tuổi thọ của cây... Để khắc phục những yếu kém trên có thể áp dụng những bước chủ yếu sau để tiến hành cho cam ra hoa trái vụ nhưng không sử dụng thuốc kích thích và thuốc trừ sâu mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao.

1. Sau thu hoạch

- Bón phân khoảng 200g urê + 10g DAP + 10 kg phân chuồng +lkg vôi cho mỗi gốc cây khoảng 5 tuổi, lượng phân này cũng chống lại hiện tượng cây ra trái cách niên (tức năm có năm không)

Phun phân bón là Biotex hoặc HVP (liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì).

2. Xử lý ra hoa

- Hái bỏ trái vào khoảng tháng 4 - 5 âm lịch.

- Lợi dụng hạn vào tháng 6-7 âm lịch bơm nước trong ao ra và ngừng tưới nước, cho cây có thời gian “ngủ”, “nghỉ”. Đến khi có mưa đánh thức cây dậy bằng cách cho nước vào ao trở lại và tưới thêm vào những ngày nắng.

- Bón phân lần 1: 200g DAP + 50g KCL. Nửa tháng sau cây ra hoa khoảng 50%.

- Tháng 8 âm lịch, bón phân lần 2 bằng 1/2 lần 1 cho cam ra hoa đợt hai.

Tháng 9 bón phân lần 3 với liều lượng bằng bón phân lần 2 cho cam ra hoa đợt ba.

3. Nuôi trái

- Bón phân: 200g NPK 20 - 10 - 15 cho một cây.

- Phun phân bón lá: Biotex hoặc ba lá xanh.

- Một tháng sau bón phân bằng 1/2 đợt bón nuôi trái lần đầu và phun phân bón lá lần hai.

- Chống hiện tượng rụng trái: bón thêm 100g NPK 20 - 10 - 15 cho mỗi cây. Đợt này không nên phun phân bón lá vì trái cam không còn lớn và để tạo điều kiện cho nấm phát triển, trái sẽ bị đen.

4. Phòng trừ sâu bệnh

- Nếu có điều kiện dùng túi chuyên dụng 16 x 20 cm bao trái lại vào ngày thứ 45 sau đậu trái nhằm bảo vệ trái không bị da lu, da cám, do nhện, ngài, mồi, bọ xít, nấm... đeo bám.

Nuôi kiến vàng: kiến vàng là loài có lợi cho các loại cây có múi vì nó tấn công các loại sâu ăn lá, sâu vẽ bùa, sâu cuốn lá, sâu đục bông, bọ xít, rầy chổng cánh và xua đuổi các loài bướm tới đẻ trứng, kiến vàng còn ăn ấu trùng của sâu, nhện... Vì vậy nếu có điều kiện nên hốt ổ kiến vàng thả nuôi hoặc chăng dây dụ chúng từ các cây khác bò sang vườn cây của mình.

- Tưới nước: tưới bằng mô tơ điện hoặc bơm nước bằng máy dầu ở những nơi không có điện. Phun trực tiếp vào gốc, lá, cây và trái (nếu không bao trái); phun gần sẽ tạo áp lực mạnh làm cho ấu trùng, sâu, nhện đỏ, nhện vàng, nhện trắng ... hạn chế rất nhiều do không có khả năng đeo bám.

Kỹ thuật bón phân NPK Văn Điển cho cây cam

Kỹ thuật bón phân NPK Văn Điển cho cây cam

Cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng (N, P, K) và các chất trung vi lượng canxi, manhê, các chất vi lượng như kẽm, bo, môlípđen thì cây cam phát triển khỏe, cho năng suất cao...

Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu nông học của các viện, Trường Đại học Nông nghiệp, các trung tâm khuyến nông trong nước đã xác định trung bình 1 tấn quả cam tươi chín, cây cam cần: 1.773g N; 506g P2O5; 3.194g K2O; 367g MgO; 1.009g CaO; 142g S, 3g Fe; 0,8g Mn; 1,4g Zn; 0,6g Cu; 2,8g B.

Do đặc điểm hình thành đất trồng cam ở miền núi phía Bắc là do đá phiến thạch phong hóa nên bản thân đất chua và nghèo dinh dưỡng đặc biệt các nguyên tố trung vi lượng, cộng với quá trình đốt rẫy nên đất ngày càng bị rửa trôi xói mòn, độ pH thấp từ 3- 4,5 nghèo các chất dình dưỡng trung vi lượng.

Trong khi đó cây cam lại cần độ pH từ 5,0 - 6,5 và phải có hàm lượng canxi, manhê và các chất vi lượng từ trung bình trở lên. Các thực nghiệm bón phân cho cây cam đều khẳng định: Cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng (N, P, K) và các chất trung vi lượng canxi, manhê, các chất vi lượng như kẽm, bo, môlípđen thì cây cam phát triển khỏe, cho năng suất cao...

Nắm bắt được nhu cầu thiết yếu này, Công ty Phân lân Văn Điển đã cho ra đời sản phẩm phân bón đa yếu tố NPK chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng (N,P,K) các chất trung lượng như canxi, manhê, các chất vi lượng như kẽm, bo, môlípđen... chuyên dùng cho cây cam đặc biệt là các chất dinh dưỡng trong phân đa yếu tố NPK Văn Điển không bị rửa trôi, có pH từ 8- 8,5 nên khi bón sẽ cải tạo nâng cao pH đất, là nguồn dự trữ dinh dưỡng cung cấp từ từ đầy đủ, cân đối cho cây cam.

Cách sử dụng phân bón đa yếu tố (ĐYT) NPK Văn Điển cho cây cam:

Chủng loại phân bón:

- NPK 5.10.3 dạng viên (N=5%; P2O5=10%; K2O=3%; S=2%; MgO=9%; CaO=15%; SiO2=14%;

- NPK 16.6.16 (N=16%; P2O5=6%; K2O=16%; S=2%; MgO=5%; CaO=8%; SiO2=7%) ngoài ra có các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co...

- Lượng bón:
Lượng bón nhiều hay ít phụ thuộc vào đất, tuổi cây, thời điểm bón, cũng như tiềm năng năng suất giống, tập quán thâm canh... Cụ thể:

- Cách bón:

Bón tháng 11- 12 (sau thu quả): 100% phân hữu cơ hoai mục + 100% phân NPK 5.10.3. Đào rãnh xung quanh tán rộng 20 - 25cm, sâu từ 5 - 10cm và rải phân sau đó lấp đất kín phân.

+ Bón thúc lần 1(đón hoa): Tháng 1 - 2 bón 40% lượng NPK 16.6.16; Bón thúc lần 2 (thúc quả): Tháng 4 - 5 bón 30% lượng NPK 16.6.16; Bón thúc lần 3 (thúc quả): Tháng 7 - 8 bón 30% lượng NPK 16.6.16.

Với cam V2 (thu vào Tết) bón thêm đợt tháng 9 - 10 mỗi gốc bón 1kg NPK 16.6.16 (chống nứt quả). Rắc phân, xới đất nhẹ quanh tán lấp phân. Tưới giữ ẩm thường xuyên hoặc tranh thủ trời mưa bón phân

Bón phân Văn Điển cây phát triển khoẻ, lá dày, ít sâu bệnh, tăng số hoa và đậu quả, quả bóng, to, nhẵn, màu sắc hấp dẫn, cam ngọt, nhiều nước, bảo quản lâu.

Chúc bà con nông dân có những mùa vàng bội thu!

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Bón Phân Cho Cam Sau Khi Thu Hoạch

Bón Phân Cho Cam Sau Khi Thu Hoạch

Trước khi bón, đào đất chung quanh gốc tạo thành đường vành khuyên rộng 20-30cm, sâu 30-40cm theo đường chiếu vành tán cây, rải đều phân xuống và lấp đất lại.

Bón phân phục hồi:


Đối với cây từ 3- 4 năm tuổi, bón 1 - 2kg AT1/gốc, cây 5- 6 năm tuổi bón 2- 3kg AT1/gốc, phân hữu cơ bón 20-50kg. Bón ngay sau khi thu hoạch, càng sớm càng tốt. Trước khi bón, đào đất chung quanh gốc tạo thành đường vành khuyên rộng 20-30cm, sâu 30-40cm theo đường chiếu vành tán cây, rải đều phân xuống và lấp đất lại.

- Thời kỳ kiến thiết (1-4 năm): Bón tập trung 1 đợt vào tháng 12 hoặc tháng 1 với lượng phân 20 - 25kg phân hữu cơ + 0,2kg sun phát đạm + 0,5kg super lân + 0,2kg kali sun phát.

- Vào thời kỳ thu quả: Bón 50kg phân chuồng + 1kg đạm + 1,2kg super lân + 0,5kg kali, chia ba lần bón:

+ Sau thu hoạch quả tháng 12 sang tháng 1: 50kg phân hữu cơ + 0,25kg super lân + 0,1kg kali.

+ Bón đón lộc xuân tháng 2 - 3: 0,6kg đạm + 0,6kg super lân + 0,25kg kali.

+ Bón thúc cành thu và nuôi quả tháng 6-7: 0,4kg đạm + 0,35kg super lân + 0,15kg kali.

- Cách bón:

+ Lần 1 (sau khi thu hoạch): bón theo vành mép tán, đào rãnh sâu 20cm, rộng 30cm. Các loại phân trộn đều cho vào rãnh lấp kín đất, tủ rơm giữ ẩm.

+ Bón thúc vào lần 2 và 3: trộn đều các loại phân hóa học rải đều trong vòng tán cây, với đảo sâu 4-5cm vùi đất lấp kín, tủ rơm rác giữ ẩm.

Bón phân xong tưới nước đều đặn, vừa phải cho phân tan để cây hấp thụ từ từ.

- Bón phân đón ra hoa, tạo mầm hoa: Trước thời điểm cho cây ra hoa 5-6 tuần, bón phân đón ra hoa (khoảng 200g DAP + 50KCL hoặc 400g AT 2/gốc 4-5 tuổi) và phun chế phẩm giúp cây tạo mầm hoa (phun F.Bo: 15g/8 lít, phun hai lần, cách nhau 4-5 ngày) trước khi ngưng tưới một tuần.

Kinh nghiệm trừ rệp sáp hại cam

Kinh nghiệm trừ rệp sáp hại cam

Do rệp sáp rất thích trú ngụ ở dưới rễ của những cây cỏ quanh gốc, vì vậy dùng thuốc cỏ cháy nhanh Gramoxone 20 SL để xử lý toàn bộ cỏ trong vườn nhằm tiêu diệt nơi trú ngụ của rệp sáp mà không làm cho đất bị xói mòn khi có mưa.


Biện pháp quản lý hiệu quả rệp sáp hại rễ là dẫn nước vào thường xuyên (nếu có thể), sử dụng thuốc trừ cỏ Gramoxone 20 SL để trừ cỏ quanh gốc cam (nơi trú ngụ của rệp), rắc thuốc Diazan 10H xung quanh gốc để trừ kiến tha rệp đi các nơi, phun thuốc ANBOOM 40 EC trừ rệp trên cây kết hợp phun đẫm quanh gốc, sục mạnh vòi phun xuống đất để thuốc ngấm đều trừ rệp hại sâu trong rễ cây.

Xử lý triệt để nơi trú ngụ của rệp sáp để tiêu diệt sạch mầm sâu bệnh:

Do rệp sáp rất thích trú ngụ ở dưới rễ của những cây cỏ “cứt lợn” quanh gốc, vì vậy dùng thuốc cỏ cháy nhanh Gramoxone 20 SL để xử lý toàn bộ cỏ trong vườn nhằm tiêu diệt nơi trú ngụ của rệp sáp mà không làm cho đất bị xói mòn khi có mưa.

Sau đó dùng cuốc xới một lớp đất sâu khoảng 10 – 20 cm vòng quanh cây theo hình chiếu tán lá, mỗi cây dùng khoảng 20 – 30 gr thuốc Diazan 10H có tính xông hơi mạnh rải vào đó rồi lấp đất lại để tiêu diệt kiến tha rệp di chuyển và các côn trùng gây hại trong đất.

Cuối cùng,  dùng thuốc đặc trị rệp sáp ANBOOM 40 EC kết hợp với nước rửa bát Mỹ Hảo (cứ 100 lít dung dịch thuốc pha thêm 15 ml nước rửa bát Mỹ Hảo), dùng cần xịt đã tháo mắt phun cắt vát một góc 45 độ rồi đập bẹt ống phun tạo thành các tia nhỏ nhưng rất mạnh.

Lắp cần xịt này vào hệ thống máy rửa xe máy có áp suất mạnh tưới đẫm đều dưới gốc cam, dùng đầu vòi sục mạnh thuốc 6 – 8 lỗ đều xung quanh ngay chỗ gốc cam sâu chừng 20 – 30 cm, mỗi cây dùng khoảng 3 – 5 lít nước thuốc.

Sau khi vườn cam được xử lý 3 ngày, bới rễ của các gốc cây cam bị rệp sáp gây hại để kiểm tra thì thấy toàn bộ rệp sáp hại rễ cam đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tuy nhiên, cần thường xuyên theo dõi vườn nhà mình để phát hiện và trừ rệp kịp thời nếu như thấy rệp mới xuất hiện và mong muốn chia sẻ phương pháp phòng trừ rệp sáp này với các nhà vườn trồng cam trong cả nước.

Rệp sáp hại rễ cam cũng như một số cây trồng khác chủ yếu trên những chân đất không được xử lý và luân canh đủ thời gian, vườn không được tưới nước đầy đủ, đất khô và nứt; khi rễ cây bị rệp sáp gây hại thì có thể nhận biết như quanh gốc cây có kiến, đất hơi bị đùn lên, nấm hoại sinh mọc gần gốc cây nơi rễ bị hỏng, lá cây bị biến màu xanh vàng…

Bạn đã biết 7 điều chú ý khi dùng cam?

Bạn đã biết 7 điều chú ý khi dùng cam?

Cam là trái cây chứa nhiều nước và các loại chất dinh dưỡng như vitamin C, acid citric, glucose… có thể đáp ứng nhu cầu cơ bản của cơ thể con người.


Tuy nhiên, cam hay bất cứ loại thức uống nào cũng vậy, không hoàn toàn lợi hay hại, vấn đề là phải dùng đúng. Dù cho là thuốc bổ mà sử dụng quá nhiều cũng trở nên có hại.

Đặc biệt đối với những bệnh nhân bị viêm gan mãn tính và cao huyết áp, nếu ăn cam nó thể thúc đẩy chức năng giải độc của gan, đẩy nhanh việc chuyển đổi cholesterol, ngăn ngừa xơ vữa động mạch.  Đồng thời, ăn cam thích hợp cũng có thể làm tăng sự thèm ăn. Tuy nhiên, nếu bạn ăn cam không đúng cách nó có thể mang lại tác hại cho cơ thể. Dưới đây là 6 điều chú ý khi ăn cam

1. Uống nước cam khi đang dùng thuốc


Nước cam không phải là một lựa chọn tốt để uống cùng thuốc kháng sinh. Trong nước cam chứa axit nên có thể làm hỏng cấu trúc hoá học của các thuốc. Và một khi mất cấu trúc hoá học đặc thù thì thuốc kháng sinh sẽ không còn sức mạnh diệt khuẩn. Bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị nhiễm khuẩn kéo dài.

Nước cam cũng có thể can thiệp vào khâu hấp thu thuốc làm giảm nồng độ thuốc trong máu, giảm hấp thu từ ruột. Lý do là vì nước cam chứa một chất tương tự như naringin, chất này làm bất hoạt hai men vận chuyển thuốc là OATP1A2 và CYP3A4. Không có hai men này hoạt hoá, thuốc khó lòng mà được hấp thu đầy đủ.

2. Uống nước cam khi bị viêm loét dạ dày

Nhiều người nghĩ rằng, nước cam tốt, nên có thể uống thoải mái, uống vào lúc nào cũng được. Thực tế thì không như vậy, nước cam có thể rất tốt với người này nhưng lại không tốt cho người khác.

Nếu đang bị viêm loét dạ dày, tá tràng, hay viêm tuyến tụy thì không nên uống nước cam, vì nó chứa rất nhiều chất hữu cơ làm tăng a-xít trong dạ dày, gây ra chứng ợ nóng và làm chứng viêm loét nặng thêm; và nước cam có tác dụng nhuận tràng nên nếu bạn bị tiêu chảy thì nên pha loãng chúng với nước và uống từng chút một thôi.

3. Uống nước cam ngay sau khi ăn

Sau khi ăn, uống 1 ly nước cam có nên không? Khi bạn vừa ăn xong mà uống ngay một cốc nước cam đúng là không có lợi. Vì, trong nước cam có hàm lượng đường cao, nếu uống ngay sau khi ăn sáng làm cho đường lên men, gây sình hơi, tức bụng rất khó chịu

4. Uống nước cam vào buổi tối

Không nên uống nước cam vào buổi tối, do nước cam có tác dụng sinh tân dịch và lợi tiểu, dễ gây đi tiểu đêm làm mất ngủ.

5. Uống nước cam khi đói

Nước cam tốt nhất nên uống vào lúc không no, không đói – tức sau khi ăn 1 – 2 giờ.

6. Không ăn cam và củ cải cùng nhau


Khi ăn củ cải vào cơ thể con người, nó sẽ nhanh chóng sản xuất một chất gọi là “sulfate”. Sau khi sulfate được chuyển hóa, nó sẽ sản xuất một chất chống tuyến giáp – thioxianic axit. Nếu bạn ăn cam tại thời điểm này, các flavonoid có trong cam sẽ được phân hủy trong đường ruột và thay đổi thành axit hydroxy và acid ferulic.Hai loại chất có thể tăng cường tác dụng ức chế axit thioxianic về tuyến giáp, sẽ tạo ra hoặc gây bướu cổ.

7. Không uống sữa khi ăn cam


Protein trong sữa sẽ phản ứng với axit tartaric và vitamin C có trong cam, nó không chỉ ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa và hấp thụ thức ăn mà còn có thể gây ra tình trạng chướng bụng, đau bụng, tiêu chảy…

Do vậy không nên uống sữa  trước hoặc sau khi bạn đã ăn cam một giờ.

Cách diệt sâu Bore hại cam quýt đơn giản

Cách diệt sâu Bore hại cam quýt đơn giản

Các cây trong họ cam quýt như cam, chanh, quýt, bưởi, bòng... có rất nhiều loại sâu bệnh gây hại, trong đó có nhóm sâu đục cành, đục thân, đục gốc hay còn gọi là sâu Bore là nhóm nguy hiểm nhất


Mức độ lây lan của nhóm này rất nhanh, có sức tàn phá ghê gớm, có thể dẫn đến huỷ diệt cả vùng cây lớn nhưng rất khó phòng trị vì chúng nằm sâu bên trong cành, thân, gốc cây thuốc hóa học không thể thấm vào bên trong được vì vậy việc phun thuốc trừ sâu hóa học hoàn toàn không có hiệu quả.

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu qui luật phát sinh, phát triển của từng loài, KS. Lê Đức Phát, cán bộ kỹ thuật đội Sao Đỏ, Nông trường Thống Nhất, Thanh Hóa đã có một số biện pháp diệt trừ nhóm sâu hại nguy hiểm này bằng các biện pháp thủ công đơn giản, rẻ tiền nhưng rất hiệu quả. Sáng kiến này được nhân rộng ra toàn đội Sao Đỏ và nhiều nơi tham quan học tập làm theo. Nhờ các biện pháp thủ công này mà nhiều vườn cam quýt đã được cứu thoát khỏi sự hủy diệt của sâu Bore. Theo anh Phát thì nhóm sâu Bore chủ yếu có 3 loại: sâu đục cành, sâu đục thân và sâu đục gốc.

- Sâu đục cành có tên khoa học là Chelidonium argentatum Dalm, là sâu non của con xén tóc màu xanh nên gọi là xén tóc xanh. Xén tóc xanh thường đẻ trứng vào tháng 5-6 trên các nách lá ngọn cành tăm. Sau 10-12 ngày sâu non nở và bắt đầu gặm vỏ cành để sống, đục phá từ cành nhỏ đến cành lớn và cả thân cây. Từ 8 đến 9 tháng sau, sâu non đục đến cành cấp 1 hoặc cành cấp 2, thậm chí có thể tới thân, tuỳ theo độ dài của cành. Thông thường tập trung là cành cấp 1, sâu non làm một buồng hoá nhộng bằng cách dùng mùn cưa và chất bài tiết vít đường đục lại rồi đục một lỗ ra ngoài, chừa lại vỏ cành để làm cửa vũ hoá sau này. Khoảng tháng 2, tháng 3, sâu non hoá nhộng, tới tháng 4, tháng 5 thì vũ hoá thành con xén tóc xanh bay ra. Vòng đời của sâu là một năm.Trên một thân cây có thể bị hàng chục con sâu đục cành và nếu 2-3 năm liền bị hại thì cây sẽ chết.

- Sâu đục thân có tên khoa học là Nadezhdiella cantori Hope, là sâu non của con xén tóc màu nâu nên gọi là xén tóc nâu. Xén tóc nâu thích nơi râm mát, ban ngày ẩn nấp, ban đêm thường tìm đến đẻ trứng vào những kẽ nứt, những chỗ gồ ghề ở thân cây cách mặt đất từ 0,3 đến 1 m. Trong các tháng 5-6-7, sau khi đẻ, 6-12 ngày trứng nở.

Sâu non nở ra chui vào vỏ và phá hoại phần gỗ từ 22 đến 24 tháng, tạo thành những đường đục ngoằn ngoèo không theo qui luật dọc theo thân cây. Sâu non nghỉ đông 2 lần vào khoảng tháng 12 và tháng 1. Sâu hoá nhộng vào khoảng tháng 2 và vũ hoá thành xén tóc nâu vào tháng 3 và tháng 4. Vòng đời của sâu đục thân kéo dài từ 2,5 đến 3 năm.

- Sâu đục gốc có tên khoa học là Anoplophora chinensis Forster, còn gọi là xén tóc sao hay xén tóc hoa vì trên toàn thân màu đen của con bọ trưởng thành cánh cứng này có điểm khoảng 30 chấm trắng. Con trưởng thành thường ăn bổ sung bằng các phần non của cây, đặc biệt là rễ non trước khi đẻ trứng vào tháng 5, tháng 6, vũ hoá vào tháng 5-6. Trước khi đẻ, xén tóc sao cắn vào gốc cây một vết hình chữ T ngược rồi đẻ trứng vào đó. Sau 6-12 ngày thì trứng nở, sâu non di chuyển xuống phía dưới gốc, phá hại phần gốc, rễ cây tiếp giáp với thân. Đầu tiên sâu hại vỏ, sau đó đục vào bên trong phần gỗ. Nhiều khi sâu đục cả những rễ to làm cho cây héo toàn bộ, rụng lá và chết. Sâu non phá hại trong 2-3 tháng thì nghỉ đông ở gốc cây. Đến tháng 3, tháng 4 năm sau thì hoá nhộng, tháng 5-6 vũ hoá. Vòng đời của xén tóc sao là một năm.

Biện pháp phòng trừ

- Với sâu trưởng thành: Dùng vợt hoặc bắt bằng tay đối với cả 3 loại xén tóc trong thời gian con trưởng thành vũ hoá và đẻ trứng từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm.

- Diệt sâu non bằng cách bẻ cành non bị héo (đối với sâu đục cành) vào các tháng 5, 6, 7. Những cành con bị sâu tiện một vòng tròn quanh vỏ sau vài ngày thường bị héo. Khi lá mới chớm héo, còn màu xanh nhưng mép lá hơi uốn cong, dùng sào dài có chạc khẽ vặn, cành sâu sẽ gãy dễ dàng, sâu sẽ rơi ra và chết. Nếu cành đã héo khô thì sâu non đã đục trở xuống phía dưới vòng tròn. Có thể cắt hoặc bẻ xuống dưới một đoạn cũng có thể loại bỏ được sâu non. Kinh nghiệm nhiều gia đình cho thấy biện pháp bẻ cành héo triệt để có thể hạn chế được sự gây hại của sâu trên 90%. Với các con sâu non đã đục vào trong cành lớn, thân cây hoặc gốc cây thì có thể dùng một sợi dây thép nhỏ và cứng như dây phanh xe đạp để làm thành cái móc nhọn như lưỡi câu, luồn vào trong để ngoáy và kéo sâu non qua các lỗ đùn phân và mạt cưa trên thân, cành và gốc cây.

- Quét thuốc: Sau khi thu hoạch quả, quét vôi hoặc Boóc-đô (pha tỉ lệ: 1 phần CuSO4 + 1 phần vôi tôi + 20 phần nước) vào gốc cây, thân cây từ 1m trở xuống để phòng các loại nấm bệnh và hạn chế việc đẻ trứng của các loại xén tóc.