Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Sáu, 21 tháng 7, 2017

Đặc Tính Giống Hồng Giòn Không Hạt Fuyu MC1

Đặc Tính Giống Hồng Giòn Không Hạt Fuyu MC1

Giống hồng giòn không hạt MC1 có nguồn gốc từ hồng giòn Fuyu, nhập nội từ Nhật Bản còn được gọi là hồng Nhật hay hồng Nhật Bản, do PGS-TS Đỗ Năng Vịnh, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp và cộng sự nghiên cứu, chọn tạo, khảo nghiệm tại Mộc Châu (Sơn La).


Do được khảo nghiệm tập trung tại Mộc Châu nên nhóm đề tài đặt tên là giống hồng giòn MC1. Tại đây hồng giòn MC1 trồng mật độ 400 cây/ha, khoảng cách giữa các cây là 5m.

Hồng giòn MC1 có đặc điểm thân cây màu xám, cành bánh tẻ màu nâu, tán cây hình bán nguyệt, độ cao phân cành trên 1m, lá thuôn hình hình trứng dài, màu xanh đậm, mặt lá phía trên có màu xanh đậm, mặt dưới có màu hơi phớt trắng, cuống lá sát cành có màu xanh tím, mép lá xung quanh hơi gợn sóng, chiều dài lá 13 - 16cm, chiều rộng lá 9 - 10cm.

Thời điểm rụng lá từ 20/10 - 5/11, thời điểm nảy lộc xuân từ 1 -10/2. Thời điểm ra hoa và đậu quả từ 15/3, đặc biệt chỉ có hoa lưỡng tính không có hoa đực.

Quả hình hơi vuông, vỏ quả mỏng, khi chín có màu vàng tươi, bóng đẹp, tai quả màu xanh, thịt quả màu vàng nhạt, rất ít hạt hoặc không có hạt, ăn giòn ngọt, không chát. Trọng lượng trung bình quả 220 - 270g/quả, thường chín vào tháng 8; ăn ngay khi hái quả, thu hoạch sớm, vận chuyển không dập nát.

Thời gian ngừng sinh trưởng của giống hồng giòn MC1 kéo dài từ 20/10 - 15/11, sớm hơn giống hồng Thạch Thất 1 tháng. Chính vì sự ra hoa sớm hơn giống hồng Thạch Thất nên không có sự thụ phấn chéo giữa các giống hồng.

Đặc điểm của giống hồng giòn MC1 rụng lá sớm và nảy lộc xuân muộn nên tránh được các đợt sương muối muộn kéo dài ở vùng cao. Bởi giống hồng này chỉ ra được 1 đợt lộc tránh được sương muối nên cây sinh trưởng, phát triển tốt và thích nghi tốt với đặc điểm khí hậu Mộc Châu. MC1 là giống chỉ có hoa lưỡng tính, bầu nhuỵ to, nhị gần như thoái hoá, không quan sát thấy phấn hoa, đó là nguyên nhân chính tạo nên đặc tính giống hồng không hạt.

Nếu trồng cách ly giống hồng MC1 với các giống hồng Thạch Thất và Nhân Hậu thì giống hồng MC1 sẽ hoàn toàn không hạt

Sau 6 năm khảo nghiệm tại Mộc Châu cho thấy giống hồng giòn MC1 sinh trưởng phát triển tốt, cây cân đối, hoa lưỡng tính và vỏ quả nhẵn, màu vàng và không hạt, năng suất năm thứ 5 đạt 14 tấn/ha, năm thứ 6 đạt trên 19 tấn/ha. Đây là giống hồng cao sản, cho hiệu quả kinh tế cao, quả to, thịt quả ăn giòn; hợp thị hiếu của người tiêu dùng

Kỹ thuật trồng giống hồng giòn MC1 - Hồng giòn Fuyu

Kỹ thuật trồng giống hồng giòn MC1 - Hồng giòn Fuyu

Hồng MC1 có nguồn gốc từ hồng giòn Fuyu, nhập nội từ Nhật Bản, do PGS-TS Đỗ Năng Vịnh, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp và cộng sự nghiên cứu, chọn tạo, khảo nghiệm tại Mộc Châu (Sơn La). Quả hồng được dùng rộng rãi để ăn tươi cũng như phơi khô. Quả hồng còn dùng để làm thuốc.


Cây hồng (Diospyros kaki T.) là một trong những loại cây ăn quả quan trọng của nước Châu Á thuộc miền ôn đới như Hồng Kông, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,… và là một trong những cây ăn quả Á nhiệt đới chịu rét nhất. Thích hợp trồng ở các vùng núi phía Bắc Việt Nam như: Sơn La, Lào Cai. Hồng MC1 có nguồn gốc từ hồng giòn Fuyu, nhập nội từ Nhật Bản, do PGS-TS Đỗ Năng Vịnh, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp và cộng sự nghiên cứu, chọn tạo, khảo nghiệm tại Mộc Châu (Sơn La).

Quả hồng chứa 12 – 16% đường, chủ yếu là đường glucose và fructoze, lượng axít thấp 0,1%. Trong 100g thịt quả có chứa 0,16mg caroten, 16mg vitamin C, ngoài ra còn có vitamin PP, B1, B2 và các hợp chất hữu cơ…Quả hồng được dùng rộng rãi để ăn tươi cũng như phơi khô. Trong khi phơi khô chúng được phủ 1 lớp đường và lượng đường có thể tăng đến 60 – 62%. Quả hồng còn dùng để làm thuốc. Theo GS. Vũ Văn Chuyên (1985), quả hồng ngâm rượu uống là một vị thuốc bổ để chống suy nhược. Tai quả phơi hoặc sấy khô gọi là “Thị đế” dùng chữa ho, nấc, đầy bụng. Khi làm mứt, đường tiết ra gọi là “Thị sương” có đường manit dùng chữa đau và khô cổ họng. Nước ép từ quả hồng chưa chín phơi hay sấy khô gọi là “Thị tất” dùng chữa huyết áp cao.

KỸ THUẬT TRỒNG

1. Chuẩn bị đất trồng – Phát quang: Dọn cỏ và cây bụi để cây có đủ ánh sáng sinh trưởng và phát triển.

– Thiết kế: Đất có độ dốc < 100 thiết kế như trên đất bằng (bố trí trồng cây theo hình chữ nhật, hình vuông hay hình tam giác). Đất có độ dốc > 100 thì phải thiết kế và trồng cây theo đường đồng mức (dùng thước chữ A).

– Mật độ: Tùy đất trồng mà khoảng cách giữa các cây có thể là: 4m x 4m; 5m x 5m hoặc 8m x 8m.

– Đào hố, bón lót: Đào hố kích thước 80cm x 80cm x 80cm, dùng 50 – 100k phân chuồng hoai mục cùng với 1kg lân super, 0,5kg kali clorua và 1kg vôi bột trộn đều với đất phù sa hoặc màu (tầng đất mặt), lấp đất cao hơn mặt hố một chút (chuẩn bị trước khi trồng 1 – 2 tháng).

2. Kỹ thuật trồng

a. Tiêu chuẩn cây giống Cây giống là cây ghép được trồng trong bầu PE hoặc ở dạng rễ trần. Tiêu chuẩn cây giống cho trồng mới TT Chỉ tiêu Loại I Loại II 1 Chiều cao cây tính từ mặt bầu hoặc mặt bầu đất (cm) > 60 50 – 60 2 Đường kính gốc ghép đo cách mặt bầu hoặc mặt bầu đất 10cm (cm) 1 – 1,2 0,8 – 1,0 3 Đường kính cành ghép đo cách vết ghép 2cm (cm) 0,8 – 1 0,6 – 0,8 4 Chiều dài cành ghép tính từ vết ghép (cm) > 45 30 – 45

b. Thời vụ trồng Tốt nhất là trồng vào tháng 1 -2 dương lịch (trước và sau tết nguyên đán). Khi cây rụng lá, ngừng sinh trưởng, trong cây chứa nhiều chất dự trữ nhất nên dễ sống, khi trời bớt lạnh mầm mới bật ngay. Cách trồng: Dùng cuốc bới tâm hố đã chuẩn bị trước 1 – 2 tháng, xé bỏ túi bầu PE, đặt cây vào giữa hố, lấp đất bằng mặt bầu cây giống, nhấn chặt đều, dùng cọc đóng chéo buộc cố định, tưới đẫm nước. Sau đó thường xuyên giữ đủ ẩm cho cây.

3. Kỹ thuật chăm sóc

a. Chăm sóc thời kỳ cây chưa mang quả

– Tưới nước, giữ ẩm, làm cỏ: Thời kỳ mới trồng phải thường xuyên tưới đủ ẩm cho cây, làm sạch cỏ gốc đồng thời tủ cỏ khô xung quanh gốc để giữ ẩm.

- Bón phân: Trong 3 năm đầu lượng phân bón cho 1 cây là: 100g Urê, 100g supe lân, 100g kali sunphát (hoặc kali clorua) chia 3 lần bón:

+ Tháng 1 – 2: Bón 100% lân + 50% kali + 30% đạm. + Tháng 4 – 5: Bón 20% kali + 30% đạm.

+ Tháng 8: Bón nốt sô phân còn lại.

Cách bón: Đào sâu 15 – 20cm quanh tán, cách gốc 30 – 40cm, rải đều phân, lấp đất kỹ, tưới đủ ẩm và tủ gốc bằng cỏ khô.

– Đốn tỉa tạo hình: Cây hồng vừa đem trồng đã phải đốn tạo hình ngay, chỉ giữ một thân chính, cắt cụt hết các cành để cây bật ra các cành mới khỏe. Chọn trên thân chính 3 cành khỏe mọc ra 3 hướng khác nhau để làm cành khung. Cuối năm thứ nhất chủ yếu là cắt ngắn các cành khung cấp 1 chỉ để 2 – 3 cành khung cấp 2 vào các vị trí thích hợp sao cho các cành đều hướng ra ngoài. Cuối năm thứ 2 chủ yếu là cắt ngắn các cành khung cấp 3. Hết năm thứ 3 coi như tán cây hồng đã ổn định, cây hồng bắt đầu bói quả và bước sang thời kỳ đốn tạo quả.

– Đốn tạo quả: Đốn tạo quả phải căn cứ vào đặc tính ra hoa của cây hồng: cành quả chỉ sinh ra trên cành mẹ đã mọc từ năm trước. Cành mẹ chỉ sinh ra cành quả ở búp thứ nhất đến búp thứ 3 tính từ ngọn xuống.

Nguyên tắc cơ bản của đốn tạo quả là không đốn hớt ngọn vì sẽ cắt bỏ những búp sinh ra cành quả. Bởi vậy, nghĩa là cắt từ chân loại bỏ hẳn những cành mẹ quá yếu. Cành đã ra quả rồi mà yếu cũng phải cắt tận chân, mặt khác nếu cành khỏe cũng cắt phía trên nơi đã có quả, để lại 1 – 2 mầm, những mầm này năm sau sẽ phát triển thành cành mẹ và sẽ chọn ở gốc cành 1 – 2 cành mẹ khỏe nhất. Như vậy, những cành mẹ năm nay phải được chuẩn bị từ năm trước bằng kỹ thuật đốn thích hợp, không đốn thì số cành mẹ sẽ khá nhiều, yếu ớt, quả sẽ bé. Những cành mẹ năm nay nếu được hướng dẫn, chọn lựa và đốn tỉa đúng kỹ thuật thì năm sau sẽ sinh ra những cành quả khỏe với số lượng quả vừa phải ở những vị trí cần thiết.

b. Chăm sóc thời kỳ cây mang quả:

– Tưới nước, giữ ẩm, làm cỏ: Tưới đủ ẩm cho cây 2 lần/tháng, nếu có mưa thì thôi, tủ cỏ khô quanh gốc giữ ẩm. Hàng tháng làm sạch cỏ gốc và cứ 3 tháng/lần làm sạch coe băng. – Bón phân: Lượng phân bón từ năm thứ 4 trở đi (kg/cây) Tuổi cây Đạm urê Supe lân Kali clorua 4 – 5 6 – 7 8 – 10 11 – 14 15 – 20 > 20 0,2 0,3 0,4 0,6 0,8 1,2 0,3 0,4 0,6 0,8 1,2 1,7 0,2 0,2 0,3 0,4 0,6 0,8

– Phân chuồng: 2 năm bón 1 lần với lượng từ 30 – 50 kg/cây. Cách bón: Đào rãnh sâu 20cm, rộng 20cm theo hình chiếu mép tán, luân phiên theo lần bón, chia 3 lần: + Tháng 5 – 6: Bón 20% lân + 25% kali + 20% đạm. + Tháng 9 – 10: Bón số phân còn lại.

4. Một số sâu, bệnh chính và biện pháp phòng trừ


a. Sâu hại:

– Sâu đục quả (Kakivoria flovofasciata Nasano): là sâu non của một loại bướm đêm xuất hiện vào tháng 5 – 7. Trứng đẻ ở cuống hoặc tai quả, sâu non vừa nở ra đã đục vào tâm và làm quả rụng. Diệt trừ bằng cách nhặt quả non bị sâu đục đem hủy, phun Trebon 0,1% khi sâu mới xuất hiện

– Rệp sáp: Thường tập trung gây hại ở búp lá non, tai quả non vào khoảng tháng 2 – 3. Trừ rệp bằng cách phun Supracide 0,1% hay Trebon 0,1%.

– Sâu đo (Perenia graffate Guenee): phát sinh vào tháng 5, tháng 9, thường ăn trụi lá hồng. Diệt trừ bằng cách phun Decis 0,1%, Polytrin 0,1%.

b. Bệnh hại:

– Bệnh giác ban hại hồng (Cercospora kaki): Hại lá và tai quả hồng bằng những vết không đều: phía giữa màu nâu sáng, phía ngoài sẫm hơn. Bệnh thường phát sinh vào tháng 7, 8, 9 làm rụng lá, quả héo rụng. Phòng trừ bằng cách nhặt và đốt lá bệnh, phun Bordeaux 1%.

– Bệnh đốm tròn (Mycosphaerella nacwae): Phá hại lá từ tháng 7, 8; tháng 9 càng nặng. Vết bệnh tròn, ở giữa màu nâu nhạt, xung quanh màu nhạt hơn, nhưng ở lưng lá thì xung quanh màu xám. Vết bệnh càng già càng sẫm hơn, lá chuyển sang màu đỏ rồi rụng. Phòng trừ bằng cách nhặt và đốt hết lá bệnh, phun Bordeaux 1% hoặc Kasuran 0,1%.

Ngoài ra còn có bệnh thán thư (Gleosporium kaki) và bệnh phấn trắng (Phyllactinia kakicola) gây hại trên lá, thân và quả hồng.

5. Thu hoạch và bảo quản


a. Thu hoạch ở miền Bắc, hồng ngâm chín từ cuối tháng 8, 9, 10; hồng giấm chín vào tháng 10, 11, 12. Trên cùng 1 cây có quả chín trước, quả chín sau, khi thu hoạch phải biết phân biệt để hái, quả chín trước hái trước. Quả chín thì màu quả chuyển từ xanh sang vàng hoặc vàng đỏ rồi đỏ dần. Hái đúng độ chín thì chất lượng quả tốt hơn, nên hái vào buổi sáng hoặc chiều mát.

b. Bảo quản Sau khi thu hái, quả hồng đang ở trạng thái cứng, có thể vận chuyển đi xa và bảo quản trong thời gian dài với những phương pháp thích hợp sau khi đã cắt sát cuống quả và loại bỏ hết những quả dập nát, sứt vỏ, mất tai, chín mềm, quả bị sâu bệnh,… Có thể bảo quản bằng cách rải thành lớp mỏng nơi thoáng mát và khô. Quả hồng hái xuống dù đã chín ăn vẫn chát (trừ một vài giống) vì trong dịch quả có chất tanin dưới dạng hòa tan, sau khi khử chát, tanin vẫn ở trong quả nhưng chuyển sang dạng không hòa tan nên không cảm thấy chát nữa. Có nhiều cách khử chát như:

– Ngâm hồng: thường dùng đối với hồng Hạc Trì, Vĩnh Lạc, Lạng Sơn,..Dùng chum hoặc vại sành xếp quả hồng vào rồi đổ nước sạch ngập sâu 20cm, ngâm trong 2 – 3 ngày, mỗi ngày thay nước một lần. Sau khi ngâm, vớt hồng ra rửa lại bằng nước sạch cho hết nhớt xung quanh quả, để ráo nước một ngày là ăn được.

Chú ý: Không ngâm bằng nước mưa và có một vài loại hồng phải ngâm trong nước tro lọc hoặc nước vôi trong.

– Giấm hồng: Rửa sạch quả, để khô, xếp vào chum vại kín, ở giữa để một ống thoát hơi đan bằng tre nứa.

+ Xử lý bằng hương đen: Đốt 2 – 3 que hương đen trong ống thoát hơi, bịt kín miệng chum vại 24 giờ, sau đó xếp quả hồng ra nơi mát, 3 – 4 ngày sau quả mềm là ăn được.

+ Xử lý bằng đất đèn: Cứ 15 dm3 dung tích chum vại dùng 5g đất đèn, bên dưới ống thoát hơi đặt một bát nước con, bỏ đất đèn vào bát, bịt kín miệng chum vại, 24 giờ sau lấy ra để ở nơi mát 3 – 4 ngày là ăn được.

+ Giấm lá xoan: Lá xoan xếp dưới cùng rồi xếp hồng, cứ một lớp lá một lớp hồng, sau đậy kín, khoảng 2 – 4 ngày bỏ ra là ăn được.

+ Xử lý bằng dung dịch Ethrel: Nhúng quả hồng trong dung dịch ethrel thương phẩm nồng độ 0,6% trong 7 phút, sau đó bảo quản trong điều kiện thoáng tự nhiên, sau 3 – 5 ngày là chín hết.

Để tạo điều kiện cho cây hồng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao, chất lượng tốt. Chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ thuật riêng biệt từ khâu chọn đất đến thời vụ đối với từng giống hồng, các biện pháp chăm sóc đốn tỉa tạo hình,… và thu hoạch bảo quản quả hồng. Có thực hiện được như vậy thì sản phẩm hồng mới đảm bảo được chất lượng tốt, đạt hiệu quả kinh tế cao./.

Bí quyết trồng hồng giòn không hạt

Bí quyết trồng hồng giòn không hạt

Hồng giòn không hạt được trồng nhiều ở Đà Lạt. Nơi đây ngoài khung cảnh nên thơ thì khí hậu ở đây là điều kiện thuận lợi cho cây hồng phát triển tốt, ra nhiều trái và ngọt không kém ở miền tây.


Trái hồng có màu vàng cam khi chín cỡ nhỏ có đường kính dưới 1 cm cho tới 9cm. Dáng quả hình cầu, hình con cù, hay dạng quả cà chua bẹp. Đài hoathường dính với quả khi chín. Hồng giòn là món quà đặc biệt mà tự nhiên ban tặng cho mảnh đất này, bởi không tốn công chăm sóc, không ngại mưa gió, không kén đất trồng, chỉ cần gieo xuống là hồng đâm chồi nảy lộc, cho ra những trái ngọt khi đến mùa. Mùa thu cũng là mùa hồng bắt đầu đơm bông và chín rộ, những sắc vàng của hồng phủ đầy trên cây trông rất quyến rũ. Sắc xanh của lá hòa trộn với sắc vàng bóng của hồng làm cho khu vườn thêm lung linh, trĩu quả với nhiều gam màu rực rỡ.

Giá trị dinh dưỡng của hồng giòn: Thành phần và giá trị dinhdưỡng của thịt quả hồng rất cao, rất nhiều beta caroten và sinh tố A, sinh tố B và C. Ngoài ra,còn nhiều khoáng tố vi lượng như Ca, P, Fe, protein, nhiều chất xơ, đường. Hồng được sử dụng nhưphương thuốc cổ truyền chữa nhiễm trùng phổi, trĩ và chữa bệnh suyễn. Thườngdùng dạng hồng khô, ăn mỗi ngày khoảng một trái là tốt. Tính chất se chátcủa hồng còn giúp ngừng tiêu chảy, cầm mồ hôi và cầm máu. Hồng còn giúp ngừa ung thư vì có hàm lượng beta caroten cao, các hợp chất như sibutol và axit betulinicđược nghiên cứu có tác dụng kháng ung thư.

Kỹ thuật trồng cây hồng giòn:

Đất trồng:
trồng hồng giòn không hạt ở những vùng có độ cao trên 500m. Đất có tầng canh tác dày 70cm, có mực nước ngầm thấp. Độ pH: 4.5- 6. Nếu đất có độ pH thấp quá, cần dùng vôi để nâng độ pH lên.

Hướng trồng: Trồng theo hướng Bắc Nam. Mục đích là để tạo khoảng cách giữa các cây thông thoáng, không bị lấp bóng lẫn nhau, giúp cây quang hợp và cành ngang phát triển tốt.

Khoảng cách: từ 3 tới 5m.

Hố trồng hồng giòn không hạt: đào hố sâu 50 – 60cm và rộng 60 – 70cm. Với đất đồi, đào hố sâu 60 -80 và rộng 80 -100cm.

Bón phân: Bón lần thứ nhất: 2/3 lượng phân trong năm vào cuối tháng 12 đến tháng 1 năm sau. Bón lần thứ 2: 1/3 lượng phân còn lại vào tháng 7 – 8. Cách bón: Bón sâu 5 – 10 cm xung quanh vùng tán cây, bón phân xong lấp lại. Phân chuồng: 25 – 30 kg/ cây, bón bổ sung 2 – 3 năm một lần vào cuối mùa đông.

Tỉa cành: Tỉa loại bỏ những cành yếu mọc tập trung, cành đã bị khô chết, cành vượt, duy trì kiểu tán như thời kỳ kiến thiết cơ bản (hình phễu hoặc rẻ quạt). Đốn một phần những cành mọc ngang quá dài, đối với kiểu tán hình phễu để lại dưới 60 cm, hình rẻ quạt dưới 40cm.Trong quá trình trồng hồng giòn không hạt phải  đốn tỉa quả hàng năm lưu ý, đối với hồng, cành cho quả chỉ xuất hiện trên cành mẹ đã mọc từ năm trước, ở vị trí búp thứ nhất đến búp thứ ba tính từ ngọn xuống.

Phòng và trị bệnh: chăm sóc cây phát triển tốt, thường xuyên kiểm tra vườn quả loại bỏ toàn bộ cành bị bệnh thu gom về một khu vực để xử lý.

Chúc bà con thành công!

Quy trình trồng cây hồng

Quy trình trồng cây hồng

Hồng là cây ăn quả á nhiệt đới được trồng lâu đời ở Việt Nam, phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra, phía Nam ở vùng Đà Lạt trên độ cao 1000-1500m so với mặt biển. Hồng sinh trưởng phát triển tốt trên nhiều loại đất đồi, vẫn cho năng suất cao và ổn định hàng năm.


Hồng là cây ăn quả á nhiệt đới được trồng lâu đời ở Việt Nam, phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra, phía Nam ở vùng Đà Lạt trên độ cao 1000-1500m so với mặt biển. Hồng sinh trưởng phát triển tốt trên nhiều loại đất đồi, nơi mà nhiều cây ăn quả kém chịu hạn không trồng được thì hồng vẫn cho năng suất cao và ổn định hàng năm. Quả hồng chủ yếu để ăn tươi, chế biến hàng khô là mặt hàng xuất khẩu đặc sản của một số nước trên thế giới. Quả hồng chín chứa nhiều đường (15-20%), nhiều vitamin A (1mg trong 100g), ngoài ra còn có vitamin B1, B2, PP, C và các chất khoáng. Quả hồng không chua nên đông y cho là loại quả lành cho trẻ em, người ốm, người già, người đau dạ dày… Tai quả hồng phơi hoặc sấy khô dùng chữa ho, nấc, đầy bụng. nước ép từ quả hồng chưa chín dùng chữa bệnh cao huyết áp.

1. Các giống hồng

Các tỉnh ở miền Bắc có nhiều giống hồng chia thành 2 nhóm:

a) Hồng ngâm: Loại này khi chín ăn chát, sau khi thu hoạch, phải ngâm khử chát mới ăn được.
b) Hồng dấm: Khi quả chín có thể ăn ngay được hoặc đem dấm vài hôm rồi đem càng tốt.

Ngoài hai giống trên còn có thể kể thêm một số giống khác:
- Hồng Lạng (ở một số xã vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn)
- Hồng Hạc (ở Hạc Trì – thành phố Việt Trì – Phú Thọ)
- Hồng Yên Thôn (ở Thạch Xá – Thạch Thất – Hà Tây)
- Hồng Nhân hậu (huyện Lý Nhân – Hà Nam)
- Hồng Tiến ( huyện Nghi Xuân – Hà Tĩnh)
- Hồng vuông (Thạch Hà – Hà Tĩnh)
- Hồng dẻo và Hồng sáp (Đà Lạt – Lâm Đồng).

Trong số đó, các loại: hồng Lạng, hồng Hạc, hồng Lục Yên, hồng vuông Thạch Hà là giống hồng không hạt.

2. Yêu cầu ngoại cảnh

Nhiệt độ: Hồng thích khí hậu ôn đới và á nhiệt đới, không chịu các nhiệt độ quá thấp cũng không chịu được nhiệt độ quá cao. Cây hồng là cây rụng lá về mùa đông vì vậy cần có một thời gian nghỉ song song với một số thời gian nhiệt độ thấp nhất định thì mới ra hoa kết quả được tốt. Nhiệt độ cần để nảy mầm từ 13-14°C đến 16-17°C, nở hoa 20-22°C, để quả phát triển là 26-27°C, ở giai đoạn chín nhiệt độ hạ thấp dưới 20°C; biên độ nhiệt lớn sẽ làm cho quả ngọt, phẩm chất quả khá, mã quả đẹp.

Nước: Hồng là cây có khả năng chịu hạn khá. Lượng mưa hàng năm tốt nhất la 1200-2100 mm.

Ánh sáng: Hống nói chung rất ưa sáng. Ở vùng miền núi người ta thường chọn hướng dốc có nhiều ánh sáng. Những vùng đủ ánh sáng cây phân cành thấp hơn, tán lá rộng, quả phân bố đều trên tán. Trồng chỗ thiếu ánh sáng cây mọc vống, tán bé, phân bố quả không đều, năng suất kém rõ rệt. Mùa hồng chín nếu đủ ánh sáng, khí hậu hơi khô phẩm chất quả sẽ tốt.

Đất: Hồng thích ứng với nhiều loại đất, với điều kiện tầng đất dày, thoát nước vì bộ rễ hồng có thể ăn sâu. Độ pH 5,0-5,5.

Chống gió bão: Nói chung hồng chống gió bão yếu, nhất là trồng ở vùng đồng bằng, mực nước ngầm cao, rễ ăn nông, hi có tán lá rậm rạp, trên cây mang nhiều quả.

3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc                    

Nhân giống: Chủ yếu dùng phương pháp ghép. Vào tháng 9-10 mùa hồng chín chọn giống hồng dấm địa phương hoặc lấy quả hồng cây rửa sạch hạt, sử ký lạnh 0-5°C trong 2 tuần rồi đem gieo. Để tránh rét và bệnh thối gốc ở thời kỳ cây con nên gieo vào giữa tháng 12 đầu tháng 1. Cây mọc trong tháng 2 và tháng 3 ra ngôi. Chăm sóc cây con tốt trong vườn ươm để ghép vào tháng 7 và tháng 8. Sau khi cây con ra ngôi trong tháng 4-5 định kỳ phun thuốc Falizan 0,2% hoặc Zineb 0,6% (khoảng 500 lít thuốc đã pha cho 1ha) để chống bệnh thối gốc cho cây con.

Phương pháp ghép: Ghép mắt có gỗ và ghép cành chẻ bên. Mắt ghép lấy ở cành 1 tuổi sinh ra ở đầu mùa xuân. Chọn những cành khỏe, mọc xiên ở ngoài tán. Trên cành chọn những mắt ở đoạn giữa (đoạn bánh tẻ) để ghép. Khi ghép thao tác phải rất nhanh vì hồng có nhiều tanin khi tiếp xúc với không khí và dao ghép kim loại rất dễ tạo thành một hợp chất phức tạp phủ ngoài vết cắt ngăn cản khả năng tiếp hợp giữa gốc ghép và mầm ghép.

Ngoài nhân giống bằng ghép, người ta còn dùng hom rễ cắm vào vườn giâm như cách giâm cành cam chanh để có cây con, song hệ số nhân thấp, không thể nhân nhanh được các giống hồng quý.

Thời vụ trồng: Tháng 11 sau khi rụng lá, hoặc tháng 1 rtước khi nảy lộc.
- Đào hố trồng và bón phân lót.
Loại đất Kích thước hố (cm) Bón lót (kg/hố)
Sâu Rộng Phân chuồng Vôi bột Phân lân
Đất vườn 60-70 70-80 15-20   0,5
Đất đồi 80-100 90-100 20-30 1 0,7

- Khoảng cách và mật độ trồng: Với giống sinh trưởng khỏe; 6x4m hoặc 6x5m, giống sinh trưởng yếu: 5x4m hoặc 5x5m. Đất đồi trồng dày hơn đất đồng bằng.

Chăm sóc vườn sản xuất:

- Trồng xen: Ở đồng bằng xen chuối, đu đủ, các loại rau… Đối với đất đồi thì xen lạc, đỗ tương, các loại muồng… Tùy theo sự phát triển của của tán cây hồng mà thu hẹp dần phạm vi trồng xen. Trồng sen cách gốc hồng 0,5-0,8m.
- Tạo hình, cắt tỉa: Tạo hình cây con tiến hành trong 2-3 năm đầu. Chỉ để 1 thân chính cao 0,8-1m, để 4-5 cành cấp I (cành chính) các cành này cách nhau 0,5-0,6m. Trên cành cấp I để 4-5 cành cấp II, tạo cho các cành phân bố đều ra các phía. Cắt tỉa những cành nhỏ yếu, mọc đứng, cành sâu bệnh. Những cành chọn để lại thì bấm ngọn cho mọc thêm nhiều cành ngang để cây chóng có tán to và thấp.
- Bón phân: Lượng phân cần thiết cho 1hs hồng dưới 5 tuổi: 35kg N, 20kg P2O5 và 30kg K2O, từ 6-10 tuổi: 200kg N, 120kg P2O5 và 160kg K2O phân nguyên chất - sản lượng 6-10 tấn hồng/1ha. Đến khi cây 20 tuổi: 265kg N, 160kg P2O5 và 210kg K2O – sản lượng đạt tối đa 30 tấn/ha. (Cách tính đổi từ lượng phân nguyên chất sang lượng phân cần dùng. Ví dụ: Sulfat đạm có hàm lượng N nguyên chất là 21%, còn urê là 46% vậy muốn có 10kg N nguyên chất thì phải có 48kg sulfat N hay 22kg ure; với supe lân hàm lượng P2O5 là 18-21%, clorua kali 50-55% K2O, sulfat kali 46-52% K2O). Lượng phân bón cho hồng phải tập trung bón vào thời gian nghỉ (khi cây rụng lá vào  tháng 12-1) còn lại khoảng 1/3 bón vào giữa mùa mưa để chống rụng quả trước lúc thu hoạch.

Phòng trừ sâu bệnh:

- Bệnh giac ban hại hồng (Cercospora kali): Bệnh hại lá trên tai quả hồng bằng những vết không đều, phía giữa màu nâu sáng, ở phía ngoài sẫm. Bệnh phát triển chủ yếu vào mùa mưa (tháng 7,8,9). Cách phòng trị: đốt lá bệnh, phun Dithan hoặc Boocdo.
- Bệnh đốm tròn: Bệnh hại lá bắt đầu vào các tháng 7,8, nặng vào tháng 9. Vết bệnh tròn, ở giữa màu nâu nhạt, xung quanh màu nhạt hơn nhưng ở lưng lá thì xung quanh màu xám. Vết bệnh càng già màu càng sẫm hơn, lá chuyển đỏ rồi rụng. Sau đó quả nhũn và rụng. Cách phòng trị như đối với bệnh giác ban.
- Sâu đục quả: bướm đẻ trứng ở cuống hoặc tai quả. Sâu non nở ra đục vào tâm làm quả rụng. Cách phòng trừ: vặt quả non bị sâu hại đem đốt. phun Sevin hoặc Endrin khi sâu xuất hiện.
- Rệp sáp: Có nhiều loại. Phun BI 58 0,2% hay Paration 0,1%.

4. Thu hoạch và bảo quản

Ở miền Bắc hồng chín từ cuối tháng 8, chín rộ vào tháng 10-11, chậm vào tháng 12,1. khi thu hoạch quả phải biết phân biệt quả chín. Khi quả chín, vỏ quả chuyển  màu vàng rồi đỏ. Phải hái đúng độ chín, hái non phẩm chất quả sẽ kém.

Quả hồng vừa hái xuống dù đã chín nhưng ăn vẫn còn chát vì trong dịch quả có chất tanin dưới dạng hòa tan và sau khi khử chát, tanin tuy vẫn còn nguyên trong tế bào quả nhưng đã chuyển sang dạng không hòa tan nên khi ăn không thấy chát nữa.

Có nhiều cách khử chát:

- Ngâm trong nước vôi hay nước tro, hoặc ngâm rtong nước lạnh 3-4 ngày. Trong quá trình ngâm phải rthay nước sách là có thể khử chát.
- Ngâm quả vào trong nước ấm 40-50°C trong 1,5-2 ngày.
- Ủ với lá cây ở trong chum hoặc vại đậy kín. Ở Trung Quốc dùng lá lê, sơn trà, đào, tùng, bách; ở Việt Nam dùng lá xoan. Lá xếp xuống dưới, trên xếp hồng, cứ một lớp lá một lớp quả. Khoảng 3-4 ngày thì ăn được.

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

Các giống hồng và kỹ thuật trồng

Các giống hồng và kỹ thuật trồng

Hồng là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, giầu hàm lượng vi tamin và khoáng chất. Hồng là cây ưa sáng chịu hạn, chịu úng, thích hợp với các tỉnh miền núi, quả được sử dụng để ăn tươi , chế biến mứt, đồ hộp.


Các giống hồng chính

Hồng Hạc Trì:quả to, hình trái tim khi chín có màu đỏ thắm, có hat, chín vào tháng 9, 10 là loại hồng dấm.

Hồng Thạch Thất: quả to, không có cạnh góc, sai quả, chín vào tháng 11, 12 là loại hồng dấm.

Hồng Văn Lý: quả nhỏ không hạt, thịt quả rắn, chín vào tháng 12,1; sai quả , thuộc loại hồng dấm.

Hồng Lạng Sơn: quả nhỏ hình trái tim, thịt quả giòn, ngọt, khong hạt, chín vào tháng 9,10; thuộc loại hồng ngâm.

Hồng Thạch Hà: quả to, hình vuông nhưng rắn, không hạt, thịt quả nhũn, chín vào tháng 11,12; là loại hồng dấm.

Kỹ thuật trồng trọt

Nhân giống:

Ngâm rễ: chọn cây có năng suất cao, phẩm chất tốt, đào lấy những khúc rẽ có đường kính 1 – 3cm, cắt thành từng đoạnn dài 20 – 25cm, thời vụ ngâm vào tháng 12 và tháng 1.

Ghép mắt:
ghép theo kiểu chữ T hoặc của sổ mở, tời vụ ghép tháng 7,8.

Thời vụ trồng: trồng vào cụ xuân tháng 1,2.

Đào hố: rộng 60 – 70cm, sâu 50-60cm, bón 20-30kg phân chuồng , 0,5 -0,8kg lân, 0,5kg vôi trộn đều với lớ p đất mặtvà đưa xuống đáy hố sau đó lấp hố trước 1 tháng.

Khoảng cách: cây cách cây : 6-8m, hàng cách hàng 7-8m.

Chăm sóc: sau khi trồng cắm cọc định vị và tưới nước, hàng năm làm cỏ và bón bổ sung phân, lượng bón tuỳ theo tuổi và sản lượng cây - lượng phân bón như sau:

Với cây từ 1-5 tuổi bón 20-30kg phân chuồng, 2kg đạm , 2kg lân, 0,5 -1kg kali/1cây.

Với cây từ 5-10 tuổi: bón 30-40kg phân chuồng , 3kg đạm, 3 kg lân, 2kg kali/cây

Với cây từ 15 tuổi trở lên : bón 40-50kg phân chuồng , 4-5kg đạm , 4-5kg lân, 3kg kali/cây.

Cách bón: bón làm 2 thời kỳ: đón hoa và sau thu hoạch, đào rãnh rộng 30cm, sâu 20- 30cm theo hình chiếu của tám cây, bón xong lấp đất kín. Thường xuyên đốn tạo tán và cắt bỏ cành tăm.

Phòng trừ sâu bệnh

Bệnh đốm tròn :

Xuất hiện ở lá vào tháng 7,8,9; vết bệnh có màu xám sẫm, phòng trừ dùng Dithan, Boóc đô 1% phun lên lá.

Sâu dục quả: phun sevin 0,1% hoặc paration 0,1% khi sâu xuất hiện.

Rệp sáp: phun Bi58: 0,1% hoặc Diperec 0,1% khi có rệp.

Thu hoạch - khử chát:

Sau khi quả chín thì tiến hành thu hái xong phải tiến hành khử chát bằng cách như sau:

Ngâm trong nước vôi loãng hoặc nước tro 3-4 ngày. Cứ 2 ngày thì lại thay nước.

Ngâm quả trong nước ấm 40-50°C trong 36-48 giờ.

Với các loại hồng dấm sau khi ngâm xong thì tiến hành dấm bằng đất đèn hoặc lá xoan như dấm chuối.
Theo www.nongnghiep.vn

Hồng rụng quả và cách chữa trị

Hồng rụng quả và cách chữa trị

Hiện t­ượng hồng rụng quả chủ yếu do ba nguyên nhân đó là rụng quả sinh lý, rụng quả do cây bị sâu và thiếu dinh dư­ỡng


Hồng có hiện tượng rụng quả sinh lý: ở miền Bắc hiện tượng rụng quả này thường xảy ra vào tháng 5 khi quả hồng vừa to bằng đầu ngón tay. Lúc này quả rụng nhiều nhất, rồi kéo dài, rụng lẻ tẻ cho tưới khi quả gần được thu lại rụng rộ lên một lần nữa. Hiện tượng rụng quả sinh lý của hồng làm cho số quả rụng chiếm tới 80-90% số quả của cây. Ngoài ra các hiện tượng khác cũng gây rụng quả như cây ra hoa muộn, quả lớn lên vào lúc hạn hán, cây bị sâu bệnh và bị thiếu dinh dưỡng v.v.

Hiện tượng hồng rụng quả chủ yếu do ba nguyên nhân đó là rụng quả sinh lý, rụng quả do cây bị sâu và thiếu dinh dưỡng

Hiện tượng rụng quả sinh lý:

Nguyên nhân gây ra là do cây rụng lá về mùa đông, rồi ra hoa nuôi quả đồng thời với phát sinh và phát triển thân lá, cây phải làm cả hai nhiệm vụ cùng một lúc, chất nuôi cây phân tán, quả không đủ chất nuôi dư­ỡng phải rụng bớt đi, gây ra hiện tượng rụng quả non tập trung. Đến khi quả chín sinh lý, cây cũng phải dồn sức để nuôi quả, một số quả cũng phải rụng đi, để cây đủ sức nuôi số quả còn lại và duy trì sự sống bản thân . Nếu cây năm trước mà xanh tốt thì hiện tư­ợng này ở giai đoạn đầu và ở giai đoạn gần thu sẽ giảm đi. Ta cũng có thể khắc phục bằng cách phun thuốc kích thích đậu quả, tỉa bỏ các cành già, các cành bị sâu bệnh, các cành tược, cành chui vào trong tán, thụ phấn bổ khuyết bằng cách hái hoa thu lấy phấn rồi trộn thêm bột gạo mịn mà thoa lên đầu nhụy cái. Nhưng việc phun thuốc kích thích và thụ phấn bổ khuyết chỉ có kết quả khi cây hồng sung sức, khỏe mạnh, được bón phân đủ hằng năm và chăm sóc chu đáo. Nếu không thì cây sẽ cho nhiều quả, nhưng quả nhỏ và hại cây về năm sau

Rụng quả do sâu bệnh: Nói chung hồng rất ít sâu bệnh. Sâu đục cành chủ yếu là sâu non của xén tóc sâu non của sâu đục thân Cossidae và Tepilop-tera... Phòng trị bằng cách lần theo vết phân sâu thải ra nh­ư mùn cưa mà dùng dây thép chọc cho sâu chết hoặc nhỏ thuốc vào lỗ rồi vít kín lại bằng đất sét. Những cành nào bị sâu phá nặng cần cưa bỏ, rồi ngâm xuống ao cho sâu chết mới đem làm củi. Ngoài sâu đục cành còn có sâu đục quả là sâu non của loài bướm Kakivoria flavofasciata. Trứng được sâu đẻ vào tai hồng, khi nở sâu con chui vào đục và làm rụng quả. Nếu thấy thì phải nhặt quả rụng mà chôn đi để tránh sâu hóa bướm lại đẻ trứng và tiếp tục gây hại. Sâu phá nặng có thể dùng thuốc.

Rụng quả do thiếu dinh dưỡng:
ở ta, bà con có tập quán không bón phân lót cho hồng và cũng chẳng bao giờ bón thúc. Đặc biệt là ở miền núi. Nhưng do hồng cho thu hoạch lâu năm nên với những cây cha quá già cỗi, bây giờ ta khắc phục nhược điểm này vẫn chưa muộn, bằng cách, hằng năm cứ vào mùa cây rụng lá, ta đào 1/3-1/2 chu vi tán cây, tán phủ tới đâu đào tưới đó thành rãnh, sâu 25-30 cm, rộng 25-30 cm, rồi bón vào đó 30-50 kg phân hữu cơ tốt, ủ hoai, rồi tưới nước và lấp đi, giúp cho cây có đủ dinh dưỡng để nuôi cả quả và thân cành năm sau.
Ở Triều Tiên người ta bón phân cho hồng như sau:

- Cây dưới 5-6 tuổi thì bón 5 kg N + 20 kg P2O và 30 kg K2O cho một héc ta.

- Cây 5-10 tuổi cho 5-6 tấn quả/ha thì bón 100 kg N + 60 kg P2O và 80 kg K2O

- Cây 15 tuổi trở lên cho 20 tấn/ha bón 265 kg N + 120 kg P2O và 160 kg K2O đào rãnh như bón phân hữu cơ

Hạn chế cây hồng giòn rụng quả non

Hạn chế cây hồng giòn rụng quả non

Cây sinh trưởng càng mạnh cần tăng cường thêm lượng phân kali vì kali là yếu tố quyết định hạn chế rụng quả, Nếu cây đậu quả non nhiều phải cắt tỉa hợp lý


Cây hồng rụng quả non khá nhiều, thường có 2 đợt rụng lớn:

 Đợt 1 : Cây hồng rụng quả non ngay sau khi nở hoa vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 4, tỷ lệ rụng hoa chiếm trên 90%.

 Đợt 2 : Cây hồng rụng quả non rải rác  và kết thúc vào lúc quả bắt đầu chín.

Muốn phòng chống hiện tượng cây hồng rụng quả non cần thực hiện những công việc sau:


-  Trước hết phải chú ý thâm canh tốt để cây tích lũy được nhiều chất dinh dưỡng nuôi quả, hạn chế được rụng hoa, rụng quả.

- Hàng năm nên bón phân cho hồng vào tháng 12, tháng giêng – trước khi cây nẩy lộc.

- Đối với những cây đã ra quả ổn định từ năm thứ 8 trở đi cần bón cho mỗi cây 30-50kg phân chuồng hoai trộn với 0,3-0,5kg N + 0,3kg P2O5 + 0,5kg K2O. Hàng tháng nên tưới thêm 1-2 lần nước phân NPK pha loãng 100 lần cho cây hoặc phun thêm các loại phân bón qua lá. Cây sinh trưởng càng mạnh cần tăng cường thêm lượng phân kali vì kali là yếu tố quyết định hạn chế rụng quả. Nếu cây đậu quả non nhiều phải cắt tỉa hợp lý. Trong thời gian này không nên cuốc xới sâu xung quanh vùng rễ dễ gây tổn thương cho hệ rễ cũng dẫn đến rụng quả. Có thể phun kết hợp Atonik, Komix và 2 loại thuốc trừ nấm Ridomil MZ và Oxyclorua đồng vào các thời kỳ trước, sau khi ra hoa và các thời kỳ nuôi quả để hạn chế được hiện tượng cây hồng rụng quả non nâng cao số quả/chùm.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc giống hồng giòn

Kỹ thuật trồng và chăm sóc giống hồng giòn

Giống hồng mới thuộc nhóm hồng không chát hay còn gọi là giống hồng giòn (có tên Fuyu), nguồn gốc từ Nhật Bản Quả dẹt, hơi vuông, quả khi chín màu vàng cam, thịt quả màu vàng sáng, giòn, không chát, quả cứng nên dễ vận chuyển và bảo quản được lâu hơn so với các giống hồng chát ở địa phương.


Bà con sử dụng mắt ghép giống hồng này, ghép trên gốc ghép giống địa phương, cây sinh trưởng phát triển tốt cho nhiều quả, đặc biệt quả khi chín  không cần phải ngâm hoặc giấm như các giống hồng truyền thống và có thể bứt trên cây ăn luôn mà không thấy có vị chát.
Sau đây là những hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc hồng giòn của kỹ sư Đặng Đình Thắng, Viện Bảo vệ thực vật.

Chọn đất:

Ở các tỉnh miền Bắc, những vùng có độ cao trên 300m so với mực nước biển đều có thể trồng hồng được. Nhưng để có quả hồng chất lượng cao, nên trồng hồng ở những vùng có độ cao trên 500m. Đất có tầng canh tác dày 70cm, có mực nước ngầm thấp. Độ pH: 4.5- 6. Nếu đất có độ pH thấp quá, cần dùng vôi để nâng độ pH lên. Vùng trồng nhiều hồng giòn hiện nay tập trung ở Hòa Bình và Sơn La

Thiết kế vườn trồng: Tốt nhất các vườn quả được bố trí cạnh hoặc gần nguồn nước, chủ động nước tưới trong điều kiện khô hạn, có rãnh thoát nước chống úng trong mùa mưa lũ.

Trồng theo hướng Bắc Nam. Mục đích là để tạo khoảng cách giữa các cây thông thoáng, không bị lấp bóng lẫn nhau, giúp cây quang hợp và cành ngang phát triển tốt.

Thiết lập vườn quả trên đất dốc cần tạo các luống bậc thang rộng 3- 5m theo đường đồng mức.

Kỹ sư Đặng Đình Thắng khuyến cáo trồng cả giống hồng cho phấn( hồng chát) và giống hồng ta kinh doanh(hồng không chát) sẽ tốt hơn. Bởi vì nếu trồng duy nhất giống hồng giòn thì khả năng đậu quả rất kém, đặc biệt khi thời tiết bất thuận như độ ẩm đất cao làm cho giống hồng này rụng quả hàng loạt.

Trồng với tỷ lệ 1:10 tức một cây hồng chát, bố trí 10 cây hồng không chát.

Sau khi thiết kế vườn trồng xong, tiến hành đào hố để trồng. Với đất vườn, đào hố sâu 50 – 60cm và rộng 60 – 70cm. Với đất đồi, đào hố sâu 60 -80 và rộng 80 -100cm.

Để cây hồng phát triển tốt, trước khi trồng chúng ta cần bón lót cho cây.
 Loại đất  Lượng phân bón lót kg/hố
 Phân chuồng  Vôi bột Kali Phân vi sinh Urê
 Đất vườn  30 - 35  0,2  0,2  0,5 -1  0,1
 Đất đồi  35 - 50   0,5  0,2  1  1

Trồng cây:

Thời vụ trồng: tốt nhất là vào tháng 11, 12  dương lịch (thời kỳ cây hồng ngủ nghỉ).

Chọn những cây đạt tiêu chuẩn đem trồng: Sau một năm, gốc ghép có đường kính 1,5 - 2cm và đoạn cành ghép có chiều cao 20-25 cm trở lên.

Trong điều kiện thâm canh trung bình, vườn quả thiết kế cho kiểu tán hình phễu, có thể  lựa chọn :

+ Mật độ trồng 400 cây/ha: Hàng cách hàng 5 mét, cây cách cây 5 mét đối với đất vườn.

+ Mật độ trồng 500 cây/ha: Hàng cách hàng 5 mét, cây cách cây 4 mét đối với đất đồi.

Trong điều kiện thâm canh cao, thiết kế vườn quả kiểu tán hình rẻ quạt hoặc kiểu chữ Y có hệ thống dây thép chống đỡ, có thể áp dụng: Mật độ trồng: 800 - 1000 cây/ha (2,5 -  3  x 5m).

Sau khi trồng, tiến hành tưới nước. Để cây không bị lung lay khi gặp mưa gió bão, dùng cọc hoặc que tre nhỏ cắm cố định cây lại. Sử dụng rơm rạ, cây cỏ hoạc các tàn dư thực vật có trong vườn để tủ xung quanh gốc. Mục đích để giữ ẩm, tránh cỏ dại, tránh rửa trôi và tránh xói mòn khi gặp mưa.

Sau trồng một hai năm đầu, cây hồng giòn chưa giao tán, giữa cách hàng cây chúng ta có thể trồng thêm cây họ đậu. Cây rau không những giữ được độ ẩm cho đất, tăng thêm sự màu mỡ mà còn giúp tăng thêm thu nhập cho bà con.

Quản lý vườn quả

Bón phân:
Tuổi cây N (kg/ha) P2O5 (kg/ha) K2O(kg/ha)
Cây dưới 5 tuổi 35 20 30
Cây từ 6 -10 tuổi 100 60 80
Cây từ 11 - 20 tuổi 200 120 160
Cây trên 20 tuổi 265 160 210

- Bón lần thứ nhất: 2/3 lượng phân trong năm vào cuối tháng 12 đến tháng 1 năm sau.

- Bón lần thứ 2: 1/3 lượng phân còn lại vào tháng 7 - 8.

- Cách bón: Bón sâu 5 - 10 cm xung quanh vùng tán cây, bón phân xong lấp lại.

- Phân chuồng: 25 - 30 kg/ cây, bón bổ sung 2 - 3 năm một lần vào cuối mùa đông.

Làm cỏ:

Song song quá trình bón phân chúng ta tiến hành làm cỏ. chỉ nên làm cỏ ở vị trí trong tán cây, còn vị trí ngoài tán cây nên để cỏ cao 10-15 cm để giữ ẩm, tránh rửa trôi đất.

Ngoài ra, những năm lượng mưa xuân ít hoặc khô hạn, để đảm bảo năng suất và chất hồng chúng ta cần tưới đủ ẩm cho cây, nhất là thời kỳ ra hoa và phát lộc.

Đốn tỉa tạo hình:

Việc đốn tỉa giúp cây sự thông thoáng, các cành không bị che khuất lẫn nhau. Do vậy, không  những giúp cây quang hợp tốt mà còn dễ phòng trừ sâu bệnh.

Trong giai đoạn thiết kế cơ bản: Sau trồng 6 tháng – 1 năm, cây phát triển được 50cm chúng ta tiến hành bấm ngọn để tạo cành khung cấp. Sau khi cành cấp 1 mọc được 40- 45cm đều ra các hướng chúng ta tiến hành cắt tiếp tạo ra cành cấp 2.

Thời gian đốn tỉa thích hợp nhất tỉa vào mùa đông cuối đông và mùa xuân.

Trong thời kỳ kinh doanh: đốn vào mùa đông và mùa hè.

Hồng có 3 kiểu đốn tỉa chính, kiểu hình phễu, hình chữ Y và tán rẻ quạt. Thông thường đốn tỉa theo kiều hình phễu là dễ đốn tỉa nhất và cho năng suất ổn định hơn kiểu tán kia.

Kiểu tán hình phễu chúng ta tiến hành đốn như sau: Giữ một thân chính cao 0,5m sau đó cắt ngọn. Để 3 - 4 cành cấp 1 phân bố đều ra các phía. Đốn khống chế các cành cấp 1 không dài quá 45 cm, tạo cành cấp 2. Giữ 4 - 6 cành cấp 2 phân bố đều ra 2 phía. Khi đốn dùng kéo cắt nghiêng một góc 45 độ, vết cắt gọn để hạn chế sâu bệnh qua vết cắt khi gặp mưa.

Đốn tạo quả:

Tỉa loại bỏ những cành yếu mọc tập trung, cành đã bị khô chết, cành vượt, duy trì kiểu tán như thời kỳ kiến thiết cơ bản (hình phễu hoặc rẻ quạt). Đốn một phần những cành mọc ngang quá dài, đối với kiểu tán hình phễu để lại dưới 60 cm, hình rẻ quạt dưới 40 cm.

Trong quá trình đốn tỉa quả hàng năm anh Thắng lưu ý, đối với hồng, cành cho quả chỉ xuất hiện trên cành mẹ đã mọc từ năm trước, ở vị trí búp thứ nhất đến búp thứ ba tính từ ngọn xuống. Do vậy, khi cắt bỏ một phần cành đã cho quả, cần để lại một đến hai mầm. Những mầm này sẽ phát triển thành cành mẹ để cho hoa và đậu quả ở năm sau.

Thời gian đốn: Đốn một lần trong năm vào thời kỳ ngủ nghỉ trong mùa đông.

Sâu bệnh hại hồng và biện pháp phòng trừ

Sâu ăn lá: hại hồng giòn chủ yếu vào cuối mùa xuân và đầu hè (từ tháng 4 - tháng 6), đặc biệt hại nặng thời kỳ kiến thiết cơ bản, cây phát triển nhiều ngọn chồi. Sâu non màu xanh nhạt, ăn trụi các búp non và các lá xung quanh búp, có thể gây chết cả cây thời kỳ kiến thiết cơ bản hoặc làm cây sinh trưởng chậm lại.

Bọ cánh cứng: xuất hiện vào mùa hè, gây hại chồi và lá, đặc biệt gây hại nặng cho các vườn hồng gần bìa rừng. Sâu có thể ăn trụi chồi và lá cây thời kỳ kiến thiết cơ bản, gây chết hoặc cũng  làm chậm sinh trưởng.

Để phòng trừ sâu ăn lá và bọ cánh cứng hại cây, sử dụng thuốc Sherpa, Fastax pha theo nồng độ khuyến cáo.

Ruồi đục quả: Chúng ăn phần nhu mô quả, gây rụng quả ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cũng như chất lượng quả.

Để phòng ruồi đục quả, tiến hành đốn tỉa cho cây thông thoáng, hạn chế mầm vượt và trồi vượt; thu hoạch quả kịp thời; thu dọn hết quả rụng trên vườn, chôn sâu xuống đất cũng làm giảm ruồi đục quả.

Về bệnh, hồng giòn hay mắc bệnh giác ban và bệnh đốm tròn. 2 bệnh này thường xuất hiện vào những tháng có mưa nhiều đó là tháng 7 – 8 - 9.

Cách phòng: chăm sóc cây phát triển tốt, thường xuyên kiểm tra vườn quả loại bỏ toàn bộ cành bị bệnh thu gom về một khu vực để xử lý. Nếu làm tốt các khâu mà cây vẫn có bệnh, có thể dùng thuốc để phun: Kepanlazin, Bavectin, Dithan hoặc Booc-đô. Liều lượng và cách sử dụng thực hiện theo chỉ định của nhà sản xuất.

Hồng giòn là một trong những cây ăn quả cho giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Sau 3,5 – 4,5 năm bắt đầu cho quả bói, một cây cho khoảng 20 - 50kg với giá bán trung bình 20.000 đ/kg, trừ chi phí bà con có thể thu lãi 250 – 300 triệu đồng /ha. Nếu chăm sóc tốt những năm  về sau sẽ cho thu hoạch nhiều quả hơn.

Theo vtc16.vn

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

Phòng chống hiện tượng rụng hoa, rụng quả cho cây hồng

Phòng chống hiện tượng rụng hoa, rụng quả cho cây hồng

Muốn phòng chống hiện tượng rụng hoa, rụng quả cho hồng một cách có hiệu quả, trước hết phải chú ý thâm canh tốt tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt, lá quang hợp mạnh để cây tích lũy được nhiều chất dinh dưỡng nuôi quả, hạn chế được rụng hoa, rụng quả.


Theo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học nông nghiệp nước ta thì cây hồng rụng hoa, rụng quả khá nhiều. Thường có 2 đợt rụng lớn:

Đợt 1 xảy ra ngay sau khi nở hoa vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 (trường hợp cây hồng của gia đình bạn nở hoa sớm vào tháng giêng), tỷ lệ rụng hoa đợt này chiếm trên 90%.

Đợt 2 rụng quả rải rác và kết thúc vào lúc quả bắt đầu chín.

Muốn phòng chống hiện tượng rụng hoa, rụng quả cho hồng một cách có hiệu quả, trước hết phải chú ý thâm canh tốt tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt, lá quang hợp mạnh để cây tích lũy được nhiều chất dinh dưỡng nuôi quả, hạn chế được rụng hoa, rụng quả.


Đối với những cây đã ra quả ổn định từ năm thứ 8 trở đi cần bón cho mỗi cây 30-50kg phân chuồng hoai trộn với 0,3-0,5kg N + 0,3kg P2O5 + 0,5kg K2O. Hàng tháng nên tưới thêm 1-2 lần nước phân NPK pha loãng 100 lần cho cây hoặc phun thêm các loại phân bón qua lá cho cây để tăng cường dinh dưỡng, góp phần hạn chế rụng quả. Tùy theo tình hình sinh trưởng của cây mà phối hợp phân đạm và kali với tỷ lệ thích hợp. Cây sinh trưởng càng mạnh cần tăng cường thêm lượng phân kali vì kali là yếu tố quyết định hạn chế rụng quả. Nếu thấy cây đậu quả non nhiều có thể điều hòa tỷ lệ giữa số lá và số quả bằng cách cắt tỉa hợp lý. Trong thời gian này không nên cuốc xới sâu xung quanh vùng rễ dễ gây tổn thương cho bộ rễ và cũng dẫn đến rụng quả.

Kỹ thuật trồng hồng Nhân hậu

Kỹ thuật trồng hồng Nhân hậu

Hồng Nhân Hậu được người dân trồng trên núi đá tai mèo. Cũng thật lạ, trên một vùng đất cằn cỗi, sỏi đá... những cây hồng vẫn sai trĩu quả.


1. Đào hố:

Hàng cách hàng 5-6m, cây cách cây 4-5m. Kích thước hố càng tô, càng sâu càng tốt. Tối thiểu 80 x 80 x 80cm, vùng đồi núi tùy thuộc địa hình có thể trồng thưa hơn
Bón phân lót: Xác thực vật khô (rơm, rạ, cỏ, lá cây...) và đất trộn lẫn hoặc từng lớp chồng lên nhau (xác thực vật - đất - xác thực vật - đất) chất đầy hố, cao hơn mặt đất 10 - 15cm. Khi lấp đến 1/2 hố thì trộn thêm 1kg lân, 05 kg kali, 50kg phân chuồng hoai mục. Hố phải chuẩn bị xong trước khi trồng từ 2 - 3 tháng

2. Trồng cây.

Cây ghép rễ trần tháng 12 - tháng 1, trước lập xuân, khi lá đã rụng hết, chưa bật lộc non (nếu trồng cây ghép trong bầu, có thể sớm hoặc muộn hơn) dùng cuốc hoặc thuổng moi một hố nhỏ vừa đủ, đặt bộ rễ cây hồng vào, lấp đất nhỏ bùn ao khô ải có trộn phân chuồng hoai mục, phân đều bộ rễ cho tiếp xúc với đất (không được để rễ nằm trong khoảng không của kẽ đất)
Khi trồng xong, mặt hố xung quanh gốc hồng hơi lõm xuống để giữ nước nhưng vết ghép phải luôn luôn cao hơn mặt đất 10 - 15cm.
Tủ gốc bằng các thực vật khô, cắm que cố định, cây cho cành ghép thẳng đứng, cắt ngang cành ghép cách chỗ ghép 30cm để tạo 2 - 3 cành cấp 1 cho tán cây hồng về sau. Tưới thật đẫm (40 - 50 lít nước cho một cây lần đầu sau khi trồng và tủ gốc xong). Thường xuyên giữ ẩm cho cây khi còn nhỏ bằng cách tủ gốc và tưới nhẹ.

3. Bón phân

Cách bón: Đào hố sâu 30 - 40cm theo hình chiếu thẳng mép tán cây. Trộn các loại phân với đất nhỏ, bón vào hố, lấp đất kín phân.

4. Phòng trừ sâu bệnh

Sâu hại hồng chủ yếu là sâu ăn lá và ăn búp non. Phun trừ bằng thuốc Padan, Basudin hoặc Trebon pha 0,1% (10 - 12cc/1 bình 10 lít) phun vào chiều mát.

Bệnh hại hồng chủ yếu là bệnh đốm lá, đốm thân. Có thể phun phòng trừ bằng thuốc Kasuran (có chứa đồng) pha 0,1 - 0,12% phun, chú ý mặt dưới lá

Bón phân cho hồng xiêm

Bón phân cho hồng xiêm

Rễ cây hồng xiêm thường tập trung ở tầng đất mặt và cách gốc 1/2 tán cây. Vì vậy bón phân cho hồng xiêm không nên bón xa gốc và bón quá sâu


Hố trồng hồng xiêm thường có đường kính 60cm, sâu 50cm. Mỗi hố bón lót 5-10kg phân chuồng trộn tro trấu.

Khi cây còn nhỏ tưới nước phân chuồng hoặc phân ngâm ủ pha loãng theo tỷ lệ tăng dần 1/10 - 1/13.

Khi cây lớn cho nhiều quả có thể bón 50-100 kg phân chuồng, 0,6-1,0 kg urê, 0,1-1,0 kg supe lân và 0,6-1,0 kg sulfat kali cho một cây.

Đào rãnh theo hình chiếu của tán cây bón phân và lấp kín rãnh.

Thời gian bón tháng 2-3 và tháng 6-7.

- Thời kỳ cây con: Từ lúc trồng cho đến khi ra quả. Thường là 3 năm. Lượng phân bón được tăng dần từ năm thứ nhất đến năm thứ 3. Lượng phân bón cho một cây là: 50-150g urê+50-150g DAP+30-100g KCl.

Lượng phân trên được chia thành 3-4 lần bón. Các lần bón cách nhau 2-4 tháng. Khi cây còn nhỏ, hoà phân vào nước để tưới cho cây.

- Thời kỳ cây trưởng thành: Lượng phân bón được tăng dần qua các năm trong phạm vi lượng phân nêu dưới đây và tăng trong thời gian cây đến 10 tuổi, sau đó ổn định ở mức cao nhất. Lượng phân bón cho một cây 1 năm là : urê: 0,5-2 kg; DAP: 0,5-1,5 kg; KCl:0,3-0,5 kg. Nếu bón phân NPK (16:16:8) thì dùng 1,5-4,5kg/cây/năm.

Lượng phân trên được chia thành 2-4 lần để bón vào các tháng 2,5,7,10.

Khi bón phân cuốc thành rãnh 1/2 vòng tròn hoặc đào từng hố nhỏ vòng quanh tán. Rải phân xong, lấp đất lại. Năm sau lại bón phân vào 1/2 tán bên kia.
Theo Khuyến nông Việt Nam

Muốn đào thải sỏi thận, đừng quên sử dụng hạt hồng xiêm

Muốn đào thải sỏi thận, đừng quên sử dụng hạt hồng xiêm

Uống nước hạt hồng xiêm nghiền hàng ngày giúp loại bỏ những viên sỏi thận cứng đầu.


Hồng xiêm được biết tới là loại trái cây giàu calo và dinh dưỡng. Đây là một trong những loại quả bổ sung năng lượng nhanh nhất cho cơ thể.

Hồng xiêm chứa hàm lượng đường fructose và sucrose cao nên luôn đóng vai trò là “bộ máy cung cấp năng lượng”.

Ngoài ra, loại quả xù xì này còn là nguồn dự trữ nhiều chất dinh dưỡng và khoáng chất khác như chất chống oxy hóa, vitamin E, A và C.

Loại quả đang chuẩn bị vào mùa ở Việt Nam này là nguồn chứa đồng và sắt thiết yếu cho cơ thể. Chất xơ trong hồng xiêm giúp giảm nhẹ chứng táo bón và ngăn chặn độc tố gây ung thư ruột kết. Do vậy, ăn hồng xiêm giúp nhuận tràng.

Hàm lượng vitamin A trong trái hồng xiêm giúp bảo vệ cơ thể khỏi ung thư phổi và ung thư vòm họng. Chất tannis trong hồng xiêm có khả năng kháng khuẩn, ký sinh trùng và kháng viêm.

Do giàu chất dinh dưỡng nên hồng xiêm đem lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Bảo vệ thị lực

Hồng xiêm rất giàu vitamin A, bởi vậy thường xuyên ăn hồng xiêm giúp cải thiện thị lực.

Chữa chứng táo bón

Hồng xiêm là bài thuốc tốt nhất trong việc chữa táo bón. Chất xơ có trong hồng xiêm giúp cải thiện tiêu hóa và chữa chứng táo bón lâu ngày.

Chống viêm

Chất tannins trong hồng xiêm chống viêm, sưng và đau hiệu quả. Bởi vậy hồng xiêm là loại quả có khả năng chống viêm và sưng tuyệt vời.

Điều trị sỏi thận

Phẫu thuật không phải là cách duy nhất để loại bỏ sỏi thận. Hạt hồng xiêm cũng có thể được sử dụng để chữa căn bệnh này.

Nghiền nhỏ hạt hồng xiêm, pha với nước uống hằng ngày có tác dụng lợi tiểu, giúp bạn loại bỏ sỏi thận.

Giúp xương chắc khỏe

Hồng xiêm chứa canxi và các loại khoáng chất như phốt pho, sắt... rất cần thiết trong việc giữ cho xương luôn chắc khỏe. Ăn hồng xiêm thường xuyên rất có lợi cho xương, giúp xương rắn chắc và khỏe mạnh.

Ngăn ngừa ung thư

Ngoài chất xơ, hồng xiêm cũng chứa các chất chống oxy hóa và các chất dinh dưỡng giúp loại bỏ các gốc tự do và ngăn ngừa bệnh ung thư.

Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Phòng trừ sâu bệnh hại hồng xiêm

Phòng trừ sâu bệnh hại hồng xiêm

Cây hồng xiêm hay Sapochê là loại cây khỏe, chống chịu sâu bệnh tốt, tuy nhiên không vì vậy mà không có sâu bệnh hại, bài viết này tổng hợp các loại sâu bệnh hại cây hồng xiêm và cách phòng trừ sâu bệnh


A. SÂU HẠI:

1. Sâu đục bông

Tên khoa học là: Fustalodes anthiuora, Clarke; Lepidoptera.

Thành trùng là bướm nâu nhỏ, cánh căng ngang 1,2 cm. Bướm đẻ trứng vào đêm trên hoa sắp nở. Sâu non nở ra ăn cánh hoa và cắn phá bầu noãn làm giảm số trái thụ và giảm năng suất. Sâu màu nâu đỏ, dài 0,6 cm, nhộng màu nâu sẫm. Vòng đời gồm: Trứng (2 - 5 ngày) - Sâu (11 ngày) - Nhộng (5 ngày) và bướm. Sâu có thể bị diệt bằng một số loài thiên địch. Có thể xịt các loại thuốc thông dụng (Azodrin 10DD, Monitor 50ND, 0,2% chế phẩm) xịt vào trước khi hoa nở.

2. Sâu đục trái

Tên khoa học là: Alophia sp., Pyralidae, Lepidoptera


Sâu bắt đầu đục phá lúc trái đạt 1 cm đến sắp thu hoạch. Từ trái bị đục, sâu có thể di chuyển sang các trái lân cận trên cùng nhánh để phá hại. Đối tượng rất quan trọng trên xa - bô vì có thể làm thất thu 30% năng suất và làm 60% số trái không có giá trị thương phẩm.

Thành trùng là bướm nâu, sải cánh 2,5 cm. Sâu màu hồng, thân có nhiều chấm đen, dài tối đa 3 cm, hóa nhộng (màu nâu sẫm) bên trong trái. Thường gây hại từ tháng 12 - 3 dl tại ĐBSCL.

Phòng trị bằng cách hái bỏ và thiêu hủy tất cả trái bị sâu mùa trước còn sót lại để không lây lan mùa sau. Xịt các loại thuốc lưu dẫn (Azodrin, Monitor, Basudin...) cách 2 tuần từ khi đường kính trái được 1 cm đến 2 tuần trước khi hái. Cũng có thể nuôi kiến hôi để diệt sâu (nhưng cần đề phòng vì kiến hôi thường nuôi rệp sáp để hút mật).

3. Ruồi đục trái

Tên khoa học là: Dacus dorsalis Hendel

Tấn công trái chín. Ruồi có kích thước gấp 2 ruồi nhà (dài 1 cm), màu nâu nhạt, có nhiều đốm vàng cam ở đầu và lưng, cánh trong suốt và có viền nâu ở mặt ngoài. Ruồi cái đẻ trứng ở bề mặt trái, giòi nở ra đục vào trong tạo thành chấm đen có quầng trên vỏ trái. Dòi đục phá bên trong làm trái thối, sau đó nó chui ra, rơi xuống đất và hóa nhộng trong vỏ kén màu nâu sẫm. Ruồi cũng tấn công cam, quýt, ổi, táo, dầu, chuối, vú sữa, chôm chôm, xoài, đu đủ và gây thiệt hại đáng kể.

Phòng trị bằng cách thu hoạch trái khi vừa chín. Dùng bã mồi (khóm, nước tương, dấm đường, thân và lá cây é tía đập dập) hay chất dẫn dụ (Methyl eugenol) trộn thuốc để diệt ruồi. Xông hơi kho vựa tồn trữ với Methyl bromide để trị giòi.

4. Bọ đục cành

Tên khoa học là: Niphonoclea albata Newm; Coleoptera

Thành trùng là bọ cánh cứng màu nâu, có đốm xám, dài 2 cm cắn phá vỏ thân và đẻ trứng từ nơi gần ngọn cành (cách ngọn 40 cm) trở xuống thân. ấu trùng (sùng) màu trắng, không chân, dài 1,8 cm, đục phá và hóa nhộng bên trong. Sùng cũng gây hại trên xoài, ổi, dâu, chôm chôm và hoa hồng. Sùng thường phá hại nặng vào đầu mùa khô, hiện diện trên đa số vườn xa - bô ở ĐBSCL.

5. Rệp dính (Coccus viridis) và rầy mềm (Aphis sp.):

Tấn công mặt dưới lá non để chích hút nhựa, tiết ra chất đường gây nấm bồ hóng làm giảm quang hợp của lá. Loài rệp dính cũng gây hại trên cam quýt, ổi và vú sữa. Dùng các loại thuốc Hosthathion, Bassa, Bi - 58, Dimecron... để trị. Tỉa bỏ và thiêu hủy các nhánh bị thiệt hại nặng.

6. Rệp sáp

Tên khoa học: Ferrisia virgata

Tấn công lá và trái làm lá rụng, trái nhỏ và giảm phẩm chất. Rệp dài 0,3 cm, mình bao phủ bởi lớp sáp trắng, đuôi có 2 ống sáp dài. Con đực trưởng thành có cánh, thường nhỏ và ít thấy. Cũng gây hại trên mãng cầu ta (na), bơ, chuối, ổi và đu đủ. Phòng trị như loại trên.

B. BỆNH HẠI

1. Bệnh đốm lá(Pestalotia versicolor)

Trên lá có nhiều đốm bệnh nhỏ màu nâu đỏ, sau đó lớn dần có hình tròn, đường kính vết bệnh 1-3 mm, tâm màu xám trắng, viền màu nâu đậm hoặc nâu đỏ. Ở tâm vết bệnh có thể thấy những ổ nấm nhỏ màu đen.

* Phòng trừ:

Phun các lọai thuốc thông thường như hỗn hợp Bordeaux,Zineb,Benomyl hay Funguran 20-30 g/bình 8 lít,cocide.

2. Bệnh bồ hóng:

Bệnh này thường đi kèm với các côn trùng như rệp sáp,rệp dính,…Vì vậy bồ hóng thường phổ biến ở các vườn có mật số rệp cao. Do lớp bồ hóng đen có thể bám trên bề mặt của lá và trái nên làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cây và vẻ đẹp của trái.

* Phòng trừ:

Cần kiểm soát trực tiếp các loại rầy rệp.Trường hợp cây bị quá nhiều bồ hóng có thể phun nước để làm tróc lớp bồ hóng đi, hoặc tỉa bỏ bộ phận bị bệnh.

3. Bệnh cháy khô đầu, mép lá:

Bệnh do nhiều loại nấm tấn công như Phomopsis,Pestalotia,Sabotae và B.theobromae. Đây là bệnh khá phổ biến trên cây sapô và chủ yếu xâm nhiễm ở các lá ngọn. Bệnh làm cháy khô từng mảnh lớn ở đầu hoặc mép lá.

* Phòng trừ: Dùng các loại thuốc trừ nấm Benomyl hay Appencarb, Daconil với liều lượng như khuyến cáo.

4. Bệnh đốm mốc xanh, mốc xám:

Thường xuất hiện mặt trên của các lá già bên dưới. Các đốm bệnh có hình tròn, kích thước từ 0,5-3 mm, màu trắng xám hay xanh đọt chuối. Ở tâm vết bệnh có thể có các ổ nấm màu đen.

Không trồng dày, vệ sinh vườn tượt, tạo điều kiện thông thoáng tránh ẩm độ cao trong vườn. Đồng thời có thể phun các loại thuốc gốc đồng hay hỗn hợp thanh phèn theo tỷ lệ 1:1:100 hoặc Cocide ,Coc 85,…

Kỹ thuật trồng sa pô chê

Kỹ thuật trồng sa pô chê

Trong các năm đầu, cây còn nhỏ, có thể trồng xen các cây họ đậu để phủ đất, giảm cỏ dại và giúp đất thêm màu mỡ. Cũng có thể xen chuối, đu đủ, khóm, mãng cầu... cần loại bỏ các cây xen khi xa - bô gần giao tán.


1.Chuẩn bị đất trồng:


Đào lỗ rộng 60 cm, sâu 50 cm vừa đủ đặt cây con. Trồng diện tích lớn cần cày xới kỹ, sâu để đất tơi xốp và thoáng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có đất thấp nên cần lên liếp (rộng 6 - 8 m); cây trồng thành hàng đơn trên mô (cao 40 cm, rộng 1,0 m), đào lỗ nhỏ đường kính 40 cm ở giữa mặt mô để đặt cây con.

2. Khoảng cách trồng:

Tùy giống và điều kiện đất đai. Các giống có tán xòe nên trồng với khoảng cách 12 - 14 m mỗi cạnh; các giống tán đứng chỉ cần trồng cách nhau 7 - 9 m. Giống xa - bô xiêm cho tán gọn 6 - 8 m nên có thể trồng khoảng cách giữa hàng 7 - 8 m (kể cả mương) và trên hàng 6 m. Nếu trồng 2 - 3 hàng trên liếp, có thể trồng kiểu nanh sấu hay chữ ngũ với khoảng cách 7 m.

Khi trồng nên lột bỏ vỏ bầu đất và cắt bớt một phần lá để giảm bớt bốc thoát hơi nước. Cần chuẩn bị hố trồng 1 - 2 tháng trước với đất trộn phân chuồng và tro trấu. Sau khi trồng cần nén đất và tưới đẫm để giảm các lỗ hổng lớn trong đất. Cây con trồng xong cần được che mát để ít bị mất nước. Mùa trồng cây con tốt nhất là đâu mùa mưa. Cây con trồng từ nhánh chiết thường được trồng nghiêng để cho nhiều tược và mau có trái.

Trong các năm đầu, cây còn nhỏ, có thể trồng xen các cây họ đậu để phủ đất, giảm cỏ dại và giúp đất thêm màu mỡ. Cũng có thể xen chuối, đu đủ, khóm, mãng cầu... cần loại bỏ các cây xen khi xa - bô gần giao tán.

3. Tưới và tiêu nước:

Trong 3 năm đầu, cây con cần được cung cấp nước đầy đủ nhất là trong mùa khô. Thường phải tưới khoảng 2 ngày/lần, tối thiểu cũng 2 lần/tuân. Số lần tưới có thể giảm dần theo mức độ trưởng thành của cây, nhưng tối thiểu cũng phải 1 - 2 lần trong mùa khô. Các vùng đất cao ở miền Đông hoặc vùng triền núi ở An Giang khó cung cấp nước trong mùa khô có thể đặt cây sâu 0,4 - 0,5 m so mặt đất để rễ ăn sâu, dễ tìm nước.

Trong mùa mưa, cần chú ý thoát nước vì ngập nước dễ làm giảm năng suất và phẩm chất trái.

4. Bón phân:

Nhiều nông dân ít quan tâm bón phân cho xa - bô, do đó cây cho ít trái, trái nhỏ làm năng suất thấp.

Các kết quả điều tra về kỹ thuật canh tác xa - bô tại đồng bằng sông Cửu Long của Đại học Cần Thơ cho thấy để đạt năng suất cao (20 - 40 tấn/ha), ngoài yếu tố mật độ, có thể bón phân cho xa - bô như sau:

- Trong thời kỳ cây tơ đến khi bắt đầu cho trái (năm I đến III): Tăng dần lượng phân mỗi năm từ 50 - 150 g Urea + 50 - 150 g DAP (18 - 46 - 0) và 30 - 100 g KCl mỗi cây/năm. Lượng phân này được chia 3 - 5 lần bón cách nhau 2 - 4 tháng.

- Trong thời kỳ cây trưởng thành: Lượng phân bón gia tăng đến khi cây được 10 tuổi và sau đó ổn định hằng năm. Lượng phân bón từ 0,5 - 2,0 kg Urea + 0,5 - 1,5 kg DAP và 0,3 - 0,5 kg KCl cho mỗi gốc/năm (hoặc l,5 - 4,5 kg phân 16-16-8 mỗi cây/năm). Lượng phân này được chia 2 - 4 lần bón vào các tháng 2 - 5 - 7 - 10 dl.

Phân được bón bằng cách đào từng lỗ nhỏ hoặc đào thành rãnh 1/2 vòng hoặc từng lỗ nhỏ quanh tán lá, rải phân và lấp đất lại. Lần bón sau sẽ bón ở 1/2 vòng quanh tán còn lại. Riêng cây con có thể hòa nước để tưới (nồng độ 0,5%).

5. Cắt tỉa:

Cây xa-bô tơ cho tán dày và đều nên không cần cắt tỉa nhiều, chỉ cân cắt bỏ các nhánh thấp xòa trên mặt đất và cắt bỏ ngọn cành tược (mọc thẳng đứng) là đủ. Đối với cây lớn chỉ cần xén bỏ những cành yếu ớt hoặc bị sâu bệnh phá hại. Khi cây quá già, cho trái nhỏ có thể tỉa, cưa bỏ các nhánh già, xấu để cây cho nhiều nhánh mới, khỏe và cho trái to. Tỉa nhánh thường được tiến hành sau khi thu hoạch, vào cuối mùa khô (4 - 5 dl).

Giống và nhân giống hồng xiêm

Giống và nhân giống hồng xiêm

Hai phương pháp thường được áp dụng nhất cho xa - bô là chiết và tháp. Phương pháp giâm cành ít được áp dụng vì thường cho hiệu quả kém.


I. GIỐNG


- Xa-bô Cây cao khoảng 10 m, mọc khỏe, ít bị nhiễm sâu bệnh, cho nhiều trái (trên 2.000 trái/cây/năm), nhưng trái tròn, nhỏ (nặng 50 - 150 g), vị lạt, thịt thô (cát). Do phẩm chất kém nên ít được ưa chuộng, diện tích ngày càng giảm đần.

- Xa-bô xiêm (xa-bô lòng mứt, xa-bô Cần Thơ): Cây cao 7 - 10 m sau 10 - 30 năm trồng, tán rộng 6 - l0 m. Lá xanh sẫm và dày hơn xa-bô ta. Cây cho năng suất 50 - 200 kg trái/cây/năm tùy điều kiện chăm sóc. Trái to, nặng 150 - 300 g, dài 7 - 10 cm, đường kính 4,5 - 6,0 cm, thịt mịn, thơm, ngọt, rất hợp thị hiếu người tiêu dùng. Trồng tốt, Xa-bô xiêm có thể cho năng suất 20 - 40 tấn/ha (với mật độ 150 - 200 cây/ha trên đất có mương liếp của Đồng bằng sông Cửu Long). Giống này có 2 dòng ruột (thịt) tím và ruột hồng thường được trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Giống này cho tỷ lệ hoa rụng khá cao nên cần trồng xen thêm trong vườn một ít cây xa-bô ta (có nhiều phấn) để tăng thêm khả năng đậu trái của giống.

Ngoài 2 giống trên còn có loại xa-bô dây (trứng ngỗng) của vùng Sóc Trăng (trái to 200 - 300 g, thịt hơi nhão), xa-bô dây Bến tre (trái to, 400 - 600 g, thịt mịn), xa-bô vỏ xanh (thịt mịn, ngọt), và xa-bô rừng (trái nhỏ, phẩm chất kém).

II. NHÂN GIỐNG XA-BÔ

1. Ươm hạt:

Chỉ dùng làm gốc tháp vì cây trồng hột chậm cho trái và không giữ được tính tốt của cây mẹ.

1.1. Chọn và xử lý hạt:

Hạt lấy từ trái chín tốt và rửa sạch, (không nên chọn hạt ở các trái thối vì tỷ lệ nảy mầm kém). Hạt được hong khô và nên tồn trữ khoảng 1 tháng trước khi gieo để hột nẩy mầm tốt hơn, Khi gieo, nên dập nứt vỏ hạt (tránh làm tử điệp bị thương) để giúp tăng tỷ lệ nảy mầm và rút ngắn thời gian mọc mầm. Hạt gieo trên liếp ươm pha cắt với khoảng cách 2 cm, sâu 1 cm. Hạt sẽ lên mầm khoảng 30 ngày sau khi gieo (tùy giống).

1.2. Chăm sóc liếp ương:

Cây có 2 lá thật được cấy sang bầu đất. Không nên cấy trễ hơn vì cây sẽ chậm hồi phục. Đất làm bầu là đất thịt pha cát hay pha sét trộn với phân hữu cơ, xốp để dễ thoát nước.

Cây con vừa cấy nên được tưới thường xuyên và che mát để mau phục hồi, sau đó giảm che dần.

Sau 15 tháng cây cao khoảng 12 cm, cần bón thêm phân đạm cách 3 - 4 tháng để cây mau phát triển. Cây con có thể sử dụng làm gốc tháp sau 2 - 3 năm tuổi, tùy cách tháp.

2. Nhân giống vô tính:

Hai phương pháp thường được áp dụng nhất cho xa - bô là chiết và tháp. Phương pháp giâm cành ít được áp dụng vì thường cho hiệu quả kém.

2.1. Chiết cành:

Là phương pháp phổ biến nhất trên xa - bô, nhưng có nhược điểm là hệ số nhân giống không cao. Vật liệu chiết thường là rễ lục bình, rễ gùa, giẻ dừa, rơm (trộn đất sình) hay tro trấu … Rễ gùa, tro trấu và xơ dừa (loại mịn) là vật liệu chiết thích hợp trong mùa mưa nhờ lâu mục và không quá ẩm.

Khi chiết, nên chọn nhánh cho trái khỏe, không quá già, đường kính 1,5 - 3,0 cm. Nhánh tốt và chiết đúng phương pháp sẽ cho rễ tốt sau 4 - 6 tháng. Mùa chiết thường bắt đầu từ tháng 12 dl và có thể kéo dài quanh năm, nhưng tốt nhất là chiết đầu mùa khô để kịp trồng trong mùa mưa.

Sau khi chọn nhánh, dùng dao bén khắc khoanh bỏ lớp vỏ thân một đoạn dài - 5 cm, để ráo trong 7 - 15 ngày, sau đó bó vật liệu đã nhúng ẩm và dùng bao ny lông bao lại. Một số nông dân còn dùng dao rạch bên trên vết khắc 2 - 4 đường ngắn (thẳng góc với vết cắt) để giúp rễ mau phát triển. Cách 1 tháng/lần quan sát bầu chiết và thêm nước để đủ ẩm (có thể dùng ống chích để bơm nước vào bầu), rắc thuốc sát trùng hạt (Basudin, Furadan, …) nếu có kiến phá hoại (nhất là trong mùa mưa).

Cành chiết được cắt khi rễ mọc nhiều, phân nhánh, rễ đâm ra khỏi bầu và đã trở màu vàng nâu. Dùng cưa, dao hay kéo cắt cành (scecateur) cắt khoảng 3 - 5 cm bên dưới cành. Nhánh chiết được giâm trên liếp giâm hoặc trong bầu đất,bội tre, có cây chống đỡ gió, cắt bớt một phần lá non, để nơi mát và đem dần ra nắng đến khi có đọt non mới bứng đem trồng. Tỷ lệ thành công khoảng 60%. Để cành chiết mau ra rễ, sau khi khắc có thể xử lý với chất điều hòa sinh trưởng NAA hay IBA, tốt nhất là khi phối hợp IBA + NAA.

2.2. Tháp:

Ít thông dụng ở Việt nam, nhưng rất phổ biến tại Philippines. Có 3 kiểu tháp trên xa - bô: tháp cành, ghép, áp nhánh và tháp mắt, trong đó tháp mắt là phương pháp kém hiệu quả nhất.

a) Tháp cành: Chọn gốc tháp đã có 1 - 2 năm tuổi, đường kính thân hơn 1 cm. Chọn nhánh non cho trái khỏe, có mầm đang phát triển, đường kính tương đương với gốc tháp để làm cành tháp. Cành tháp được khắc vỏ vào 2 - 3 tháng trước để dự trữ chất khô, sau đó phải lảy bỏ toàn bộ lá vào l tuần trước khi thắp. Khi tháp, cắt lấy cành tháp một đoạn dài 8 - 12 cm (từ ngọn), vạt xéo đầu và nhét vào vết cắt ở đầu gốc tháp (đã cắt ngọn) như thông thường. Cành tháp sống sẽ đâm chồi mới sau 30 ngày, sẵn sàng để đem trồng sau 3 - 4 tháng và cây cho trái sau 15 năm.

Nên tháp vào các tháng khí hậu mát (10 - 01 dl) để có thể cho tỷ lệ cây sống cao (80 - 90%).

b) Tháp áp: Chọn gốc và nhánh tháp có đường kính hơn l cm, tương đương nhau. Nhánh tháp và gốc được vạt một phần thân, buộc áp vào nhau và cắt sau 3 - 4 tháng. Phương pháp này có thể áp dụng quanh năm và cho tỷ lệ thành công cao (có thể đến 95 - 100%). Cây tháp ra hoa sau 2 năm.

2.3. Giâm cành:

Thành công rất thấp dù đã xử lý với chất điều hòa sinh trưởng, vì gỗ xa - bô cứng và chứa nhiều nhựa. Chọn các cành non (dài 15 cm từ ngọn) đem nhúng chậm trong dung dịch IAA, NAA hay IBA. Nhúng chậm 24 giờ trong 100 ppm IBA cho hiệu quả cao hơn nhúng nhanh. Tỷ lệ thành công còn tùy thuộc giống. Có thể khắc vỏ cành giâm 3 tuần trước khi cắt cũng giúp tăng thêm tỷ lệ ra rễ của cành.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long thường trồng phổ biến 2 giống xa-bô:

Cây hồng xiêm - Sa pô chê - Lồng mức

Cây hồng xiêm - Sa pô chê - Lồng mức

Hồng xiêm có nguồn gốc ở Trung Mỹ, mọc từ Mexico đến West Indies, và hiện nay được trồng rộng rãi tại Nam Mỹ, Mauritius, Indonesia, ấn Độ, Philippines, Việt Nam và các nơi khác thuộc nhiệt đới thấp. Tại Trung Mỹ, Hồng xiêm được trồng rất nhiều, nhưng chủ yếu để lấy nhựa - gum.


I. Giới thiệu:


Trái Hồng xiêm dùng ăn tươi hay chế biến làm kem, mứt, nước trái cây..., nhựa cây dùng làm nguyên liệu để chế biến “chewing gum” và dùng trong lĩnh vực nha khoa. Gỗ thân Hồng xiêm được dùng đóng bàn ghế (nhờ có vân đẹp), đồ trang trí, vật liệu xây dựng và các chân móng cầu chịu mặn. Hạt khô xay nhuyễn (chứa saponin, quercetin và 23% dầu) được dùng trị sán lãi và có tính lợi tiểu.

Trong trái Hồng xiêm có chứa một lượng dưỡng chất đáng kể gồm: carbohydrates (24,1%), protein (0,5%), lipid (0,9%), khoáng (0,4%), canxi (32 mg%), phốt-pho (9 mg%), kali (198 mg%), sinh tố A (85 IU%), sinh tố C (26 - 103 mg%)... (Intengan, C.L et al, 1968; Ylagan, M.M., 1961).

II. ĐẶC TÍNH THỰC VẬT

Hồng xiêm có nguồn gốc ở Trung Mỹ, mọc từ Mexico đến West Indies, và hiện nay được trồng rộng rãi tại Nam Mỹ, Mauritius, Indonesia, ấn Độ, Philippines, Việt Nam và các nơi khác thuộc nhiệt đới thấp. Tại Trung Mỹ, Hồng xiêm được trồng rất nhiều, nhưng chủ yếu để lấy nhựa (gum).

Hồng xiêm thuộc họ Sapotaoeae, tên khoa học Manilkala zopota, Linn. Van Royen (tên cũ Achras zapota, Linn.). Họ này có loài Manilkara kauki (Linn) Dub. cũng cho trái ăn rất ngon. Từ “Xa-bô” bắt nguồn từ tiếng Pháp Sapotille và Sapodilla của tiếng Anh.

1. Thân, lá

Thân Hồng xiêm có nhiều nhánh, nhưng chúng chậm phát triển. Cây cho lá hầu như xanh quanh năm. Thân cao trung bình (10-15 m), nhưng nếu mọc tốt có thể cao đến 20 m. Vỏ thân màu nâu sẫm, dày, xù xì. Cây cho tán tròn hay đa dạng tùy giống. Các giống Hồng xiêm trồng ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thường cao 3 m, tán rộng l,3-l,6 m sau 3 năm và cao 6 - 8 m, tán 6 - 8 m sau 10 năm; trên 10 năm cây ít cao thêm nhưng có tán rộng đến 10 m.

Lá nguyên, dài, dày,b óng, mọc xen và tạo thành chùm ở ngọn các nhánh nhỏ. Lá màu vàng nâu khi còn non và xanh sẫm khi già. Kích thước lá từ 3,5 - 15,0 cm x (1,5 - 7 cm), với cuống ngắn (1 - 3,5 cm). Lá xa-bô xiêm có kích thước (10 - 14 cm) ( (3,5 - l5,2 cm) với cuống dài 1 - 1,7 cm.

2. Hoa

Hoa Hồng xiêm nhỏ, trắng, không mùi, có lông tơ mặt ngoài, dài 6 - 8 cm, đường kính khi nở 1 - 1,5 cm, cuống mảnh khảnh (dài 1 - 2 cm). Hoa mọc tập trung hay đơn độc từ nách lá nơi gần ngọn nhánh. Hoa có nhiều cánh dính liền ở đáy, dạng hình chuông hoặc phình ở đáy, trắng, chia thành 6 thùy. Bộ nhị đực gồm 6 tiểu nhị cao thấp không đều với bao phấn màu vàng nâu. Nhụy cái gồm bầu noãn mang vòi nhụy với nuốm mọc ló bên trên hoa.

Hồng xiêm chỉ ra hoa ở các nách lá của chồi non trên các nhánh nhỏ. Khi trổ, các hoa bên dưới dễ phát triển và nở trước, rồi các hoa bên trên nở dần lên. Thời gian từ khi xuất hiện mầm hoa đến khi hoa nở khoảng 47 - 58 ngày (trung bình 52 ngày). Thông thường, mỗi chùm hoa trổ khoảng 6 ngày thì xong. Hoa bắt đầu nở khoảng 3 giờ chiều và nở hoàn toàn lúc l giờ trưa hôm sau. Thời điểm thụ phấn từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều, nhưng thường nhất lúc 10 - 11g30. Hoa bất thụ có màu nâu và rụng sau 7 ngày.

Ở một số giống Hồng xiêm (như Hồng xiêm xiêm), do nuốm nhận phấn trễ nên hoa thường phải nhận phấn từ các hoa khác (trên cùng hay khác cây), phấn lại có tỷ lệ bất thụ cao trên cùng giống nên phải trồng xen với các giống khác (thường là giống địa phương) để cung cấp thêm phấn, giúp tăng tỷ lệ đậu trái.

3. Trái

Từ 2 tuần sau khi thụ phấn, bầu noãn đã phát triển thánh dạng trái. Trái chín 4 - 6 tháng sau khi trổ, tùy giống và điều kiện canh tác. Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, hồng xiêm ra hoa từ tháng 5 - 11 dl (tập trung vào tháng 7 - 9 dl) và mùa trái chín từ tháng 01 - 5 dl.

Trái Hồng xiêm hình cầu hay hơi dài, kích thước thay đổi tùy giống (dài 3,0 - 9,5 cm, đường kính 3 - 8 cm, nặng 50 - 250 g), màu đỏ mốc hay vàng nâu khi chín. Một vài giống cho trái nặng đến 700 g.

Vỏ trái mỏng, được bao phủ bởi một lớp phấn nâu, lớp này bị tróc loang lổ khi hái chín. Thịt trái có màu vàng đến nâu đỏ, mềm, mọng nước, thơm ngon, ngọt, sớ thịt mịn hay thô (cát) tùy giống. Trái non chứa nhiều mủ trắng, lượng mủ này giảm dần khi trái già. Trái có 0 - 10 hột (thường từ 1 - 4). Hột dẹp, màu nâu sẫm hay đen bóng, có ngạnh bén với vỏ cứng dày 0,6 - 1,5 mm.

III. NHU CẦU SINH THÁI

Hồng xiêm cần loại đất màu mỡ, dễ thoát nước. Tốt nhất là đất thịt pha cát, xốp và thoát thủy tốt. Đất ngập nước làm cây chậm phát triển, nhất là ở giai đoạn cây con. Dù có thể mọc được ở cao độ đến 2.500 m, Hồng xiêm chỉ mọc tốt ở độ cao dưới 1.500 m. Cây chịu khí hậu khô và hơi ẩm với mưa phân bố đều. ở những vùng có mùa khô kéo dài, cây con cần được tưới thường xuyên. Các vùng khô cây thường ít bị sâu bệnh phá hại. Cây Hồng xiêm ưa nắng, nhưng cũng có thể chịu hơi rợp tốt.

Nhờ nhánh dai và gỗ cứng, hồng xiêm có thể trồng tại các vùng có gió mạnh hoặc trồng làm cây chắn gió. Cây chịu mặn tốt nên có thể trồng ở các vùng duyên hải. Ở Philippines, Hồng xiêm phát triển và cho trái rất sai trên vùng đất cát ven biển.

Hồng xiêm (Manilkara zapota, Linn. Van Royen hay Achras zopota Linn), hay còn gọi là hồng xiêm, là loài cây ăn trái quen thuộc của vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới. Hồng xiêm dễ trồng, có thể trồng kể cả vùng đất bị nhiễm mặn, ven biển hoặc các vùng tương đối khô hạn (nhờ hệ thống rễ ăn khá sâu). Cây Hồng xiêm có mùa cho trái khá dài trong năm (từ tháng 12 đến tháng 6 dl), năng suất khá cao (20 - 40 tấn/ha từ năm thứ 7), cây mau cho trái (cây chiết cho trái từ năm thứ 3), nên nó dễ mang lại lợi tức cho những vùng nhiễm mặn hay khô hạn, điều kiện canh tác thường gặp khó khăn và có thể cho lợi tức gấp 5 - 10 lần lúa.