Pages

Cây giống cây ăn quả

Cung cấp các loại giống cây ăn quả mới với chất lượng cây giống tốt nhất

Hoa lan giống

Cung cấp các loại lan giống như: Đai châu, Hồ điệp, Vũ nữ, Cattleya, Vanda và Dendro

Cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng

Cung cấp các loại cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây trồng rừng như: Cây Sưa đỏ, Cây Xoan đào, Xoan ta, Mây nếp ...

Giống rau, giống cây nông nghiệp

Cung cấp các loại giống rau, giống mới, giống cây nông nghiệp ngắn ngày năng suất cao, : Cây chùm ngây, cây su su, gấc cao sản

Kỹ thuật trồng cây

Kỹ thuật trồng cây ăn quả, kỹ thuật trồng rau, kỹ thuật trồng hoa và cây cảnh.

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2018

Cách phòng ruồi đục trái mận hữu hiệu

Cách phòng ruồi đục trái mận hữu hiệu

Trái mận hay miền bắc còn gọi là trái roi khi trồng rất dễ bị ruồi đẻ trứng là là loại ruồi hại trái mận hại trọng nhất trên trái mận. Vậy cách phòng chúng như thế nào?


Trái mận hoa đỏ hình thuôn, màu đỏ sẫm, một số giống có màu trắng hay hồng. Thịt quả màu trắng bao quanh một hạt lớn. Cây mận hoa đỏ sinh trưởng tốt ở vùng khí hậu nhiệt đới với lượng mưa trung bình hằng năm không thấp hơn 1520 mm. Hoa nở đầu mùa hè và ra quả trong ba tháng sau đó.

Phòng tránh ruồi đục trái mận

Khi mận ra trái rất dễ bị ruồi đẻ trứng, ấu trùng sinh sôi, nảy nở trong quả mận và làm hư trái. Ruồi chích vào quả đẻ trứng, nở thành sâu non làm quả thối rụng hàng loạt.

Ruồi trưởng thành nhỏ hơn con ruồi nhà một chút, màu nâu nhạt, có nhiều đốm vàng cam ở đầu và lưng. Có 3 sọc vàng xếp thành hình chữ U trên ngực và 2 sọc đen xếp hình chữ T trên thân mình.

Cách phòng trống ruồi hại mận:

– Đào hố, rắc vôi bột xung quanh thành hố, thu gom toàn bộ trái bị thối, rụng cho vào hố; rắc phủ một lớp vôi bột rồi lấp hố nhằm tiêu diệt trứng, sâu non và mầm bệnh không để lây lan sang các vụ sau. Phương pháp này phải được thực hiện thường xuyên.

– Bao quả bằng túi chuyên dùng cho cây ăn quả lưu ý túi bao phải thoát được hơi nước tránh làm thối trái mận và thu hoạch quả chín sớm hơn bình thường, không để quả chín quá lâu trên cây sẽ hấp dẫn ruồi đến ký sinh.

– Thu trái sớm hơn bình thường, đừng để trái mận chín đeo quá lâu trên cây.

– Thu nhặt hết những trái thối rụng ở dưới gốc đem đi tiêu huỷ để diệt dòi còn đang nằm ở bên trong.

– Thường xuyên vệ sinh vườn tược, tỉa bỏ những cành, lá không cần thiết để vườn được thông thoáng, hạn chế nơi trú ngụ của con trưởng thàn

– Do đặc điểm của ruồi đục quả có khả năng bay xa, con cái dùng vòi đẻ trứng vào bên trong vỏ trái, nên việc dùng thuốc hoá học có tính lưu dẫn, tiếp xúc và xông hơi để phun xịt mang lại hiệu quả không cao. Vì thế để hạn chế tác hại của ruồi đục trái cần áp dụng đồng bộ các biện pháp, khuyến cáo nông dân chú trọng khâu bao trái, đồng thời thường xuyên kiểm tra, thăm vườn, khi phát hiện ruồi vàng gây hại thì tiến hành đặt bẫy dẫn dụ con trưởng thành đến để tiêu diệt.

Lưu ý: Không nên xịt thuốc hoá học trực tiếp lên trái mận, vì vỏ trái mận rất mỏng, thuốc rất dễ dàng ngấm vào bên trong trái gây nguy hiểm cho người ăn.

Phòng trị ruồi đục trái roi - trái mận

Phòng trị ruồi đục trái roi - trái mận

Mận khi chín thường bị một loại sâu dòi đục vào bên trong ăn phá làm cho ruột trái bị thối rữa và rụng hàng loạt, những con sâu đó là ấu trùng - con dòi của con Ruồi đục trái mận - Bactrocera dorsalis

Ngoài cây mận loài ruồi này còn gây hại trái của nhiều loài cây trồng khác như táo, cam, quýt, vú sữa, ổi, xoài, thanh long... chúng được coi là một trong vài loại sâu quan trọng nhất trên cây mận, nhất là các đợt trái ra trùng vào mùa mưa. Loài ruồi này thuộc họ Trypetidae, Bộ hai cánh (Diptera).

Con trưởng thành của chúng là một loại ruồi, cơ thể có màu nâu nhạt, mặc dù là ruồi nhưng nhìn chúng có vẻ giống con ong nhiều hơn. Con cái dùng ống đẻ trứng chọc thủng vỏ trái rồi đẻ trứng vào bên trong thành từng ổ 5-10 quả bên dưới vỏ trái, vì thế trong một trái khi bổ ra các bạn sẽ thấy có nhiều con dòi nằm bên trong. Một con ruồi cái có thể đẻ từ 150-200 quả trứng.

Sau khi đẻ khoảng 2 ngày thì trứng nở ra con ấu trùng, ấu trùng là một loại dòi, màu trắng vàng lợt. Kích thước cơ thể rất nhỏ, chỉ dài khoảng 6-7 ly. Sau khi nở con dòi đục ăn phần thịt trái xung quanh chỗ ổ trứng, càng lớn chúng càng đục rộng và sâu vào bên trong ăn phá, làm cho trái bị hư thối, bị rụng và không thể ăn được. Nếu bị hại nặng trái sẽ bị rụng rất sớm và rụng hàng loạt. gây thất thu rất lớn cho nhà vườn. Đủ sức dòi đục vỏ trái chui ra ngoài, búng mình rơi xuống đất khoảng 3-7cm để làm nhộng. Ruồi đục trái thường gây hại nhiều trong mùa mưa, còn trong mùa khô tác hại của chúng không nhiều lắm.

Để hạn chế tác hại của dòi, có thể áp dụng một số biện pháp sau đây:


- Nếu điều kiện cho phép sau khi tượng trái, dùng bao giấy, bao nilon, bao chuyên dùng... bao chùm trái lại, đây là biện pháp thường cho hiệu quả rất cao không phải sử dụng đến thuốc trừ sâu, không gây ô nhiễm cho môi trường và độc hại cho người ăn, tuy nhiên đây cũng là một biện pháp khá tốn công sức của nhà vườn.

- Thường xuyên vệ sinh vườn tược, cắt tỉa những cành, nhánh không cần thiết, tạo cho vườn luôn sạch sẽ, thông thoáng, hạn chế nơi trú ngụ của con trưởng thành.

- Thu nhặt hết những trái rụng dưới gốc đem tiêu hủy để tiêu diệt dòi bên trong trái.

- Thu hái trái sớm hơn bình thường, không để trái chín quá lâu trên cây.

- Dùng thuốc VIZUBON-D để dẫn dụ và tiêu diệt con trưởng thành (con ruồi). Muốn có kết quả cao nên vận động nhiều chủ vườn cùng tiến hành đồng loạt trên diện rộng.

Khi trái mận sắp thu hoạch mới bị dòi gây hại nhiều, vì thế không nên phun xịt thuốc hóa học trực tiếp lên cây, vì vỏ trái mận rất mỏng, thuốc dễ dàng ngấm vào bên trong gây độc cho người ăn

Sâu đục trái roi và biện pháp phòng trừ

Sâu đục trái roi và biện pháp phòng trừ

Sâu đục trái và dòi là 2 loại tác động nhiều nhất lên trái roi


Cây mận cứ đến mùa là trái bị một loại sâu nhỏ như đầu chân nhang, màu đỏ hồng đục vào bên trong gây hại nhiều, chúng thải ra những cục phân nhỏ li ti màu đen. Về mùa mưa, lại bị một loại sâu có màu trắng vàng, dài cỡ năm, bảy milimét (giống như con dòi) làm thối trái.


Loại sâu trắng như dòi là ruồi đục trái. con mẹ của chúng là một loài ruồi màu nâu nhạt, nhỏ hơn ruồi nhà một chút, nhìn bề ngoài có vẻ giống con ong. Chúng dùng ống đẻ trừng chọc thủng vỏ trái rồi đẻ trứng vào bên trong. Sau khi đẻ khoảng 2 ngày thì trứng nở thành sâu non như bạn mô tả, gây hại nặng chủ yếu trong mùa mưa.

1. Ngăn chặn cả hai loại

Bao trái bằng các loại bao chuyên dùng từ khi vừa tượng trái. Biện pháp này vừa bảo vệ được trái, vừa không tốn tiền mua thuốc, công phun xịt và không gây ngộ độc thuốc trừ sâu đối với người phun thuốc và người sử dụng.

Cắt tỉa những cành, nhánh không cần thiết, tạo cho vườm mận luôn sạch sẽ, thông thoáng, hạn chế nơi trú ngụ của con trưởng thành.

2. Đối với sâu đục trái

Thường xuyên kiểm tra vườn mận, nếu thấy khoảng 5% số bông hoặc 5% số trái vừa mới tượng bị sâu gây hại thì sử dụng một trong những loại thuốc trừ sâu như: Decis 2,5EC, Fastac 5EC, Vifast 5ND, Sherpa 10EC/25EC, Cyperan 5EC/10EC/25EC, Polytrin C440EC, Polytrin P440EC... để phun xịt. Tuyệt đối không phun xịt thuốc khi trái sắp được thu hoạch, tuân thủ thời gian cách ly của thuốc để đảm bảo an toàn cho người sử dụng.

3. Đối với ruồi đục trái

- Thu hái trái sớm hơn bình thường, không để trái chín quá lâu trên cây.

- Thu nhặt hết những trái rụng ở gốc cây đem tiêu hủy để diệt dòi còn nằm bên trong.

- Dùng Vizubon-D để dẫn dụ và tiêu diệt con trưởng thành (con ruồi).

Không nên xịt thuốc hóa học trực tiếp lên trái mận, vì vỏ trái rất mỏng, thuốc dễ ngấm vào trong trái, gây nguy hiểm cho người ăn. Mặt khác, khi trái mận sắp thu hoạch mới bị dòi gây hại, nếu xịt thuốc lúc này chắc chắn sẽ không đảm bảo thời gian cách ly của thuốc.

Ngoài ra, có thể thay giống mận của bạn bằng cách ghép giống mận ấn Độ lên gốc mận cũ, vì giống mận ấn Độ không những cho năng suất cao, ăn ngon, ngọt... mà chúng còn có vỏ dày, thịt chắc nên ít bị ruồi đục trái gây hại.

Trồng roi An Phước - mận An Phước

Trồng roi An Phước - mận An Phước

Roi An Phước - Mận An Phước thuần giống có dạng hình trái quả dài, lớn trái, màu vỏ tím đỏ sọc trắng mờ rất đẹp, thịt trái giòn, ngọt, không hột

Với các đặc điểm trên cộng với sản lượng không lớn trên thị trường, mận An Phước có giá bán rất cao. Hiện nay, mận An Phước được một số nhà vườn các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang trồng. Chưa có vùng chuyên canh, mận An Phước được trồng rải rác, thậm chí trồng xen trong các vườn trồng cây ăn trái khác.
Phải là giống mận An Phước “xịn”

Giống mận An Phước trên thị trường, cành chiết có, cây tháp có nhưng chung cái tên “giống mận An Phước”, cần phân biệt theo xuất xứ, cách làm cây ghép. Các nhà vườn thành công ở vào nhóm các hộ trồng cành chiết từ cây mận An Phước cho năng suất cao ổn định, trái to, đẹp (có tỉa trái) và chất lượng thịt trái tốt (trong điều kiện đủ nước và bón phân đúng quy trình khuyến cáo), không hột. Hộ trồng cây giống ghép bo của cây mận An Phước tốt trên gốc ghép hồng đào đá cũng phát triển và cho thu hoạch tốt. Cá biệt có nhà vườn ở Cần Thơ ghép đoạn cành trên gốc trâm cho trái màu tím đen rất ấn tượng nhưng mới ra trái 1 - 2 năm, chưa xác định rõ năng suất.

Đất trồng mận An Phước

Theo khuyến cáo của Trung tâm khuyến nông Vĩnh Long nên trồng mận ở đất có tầng dày trên 50 cm, độ mùn 2 - 2,5% trở lên, tơi xốp, khả năng giữ ẩm tốt, dễ thoát nước. Nhiều tài liệu kỹ thuật khuyến cáo đào hố bón phân bón lót kết hợp đắp mô trồng mận, hố sâu 30 cm, mô cao 30 cm, đường kính mô 50 - 60 cm. Phân bón mỗi mô: 20 - 25 kg phân chuồng hoai + 200 g super lân +100 g sulfat kali + 300 g vôi bột, trộn đều các loại phân với đất trong giữa mô, để 1 tháng, sau một vài lần đảo trở mới trồng. Nên trồng chuyên mận, nếu xen canh chỉ 3 năm đầu. Mật độ trồng 550 - 600 cây/ha tùy liếp đơn hay liếp đôi, mương rộng hay hẹp.

Ở ĐBSCL sẵn nước tưới, trồng mận lúc nào cũng được nhưng tốt nhất vào lúc trước mùa mưa 2 - 3 tháng. Làm đất nhuyễn, đặt ngang mặt bầu, tưới cho đất hố trồng ẩm, nén chặt đất quanh bầu, đóng cọc kềm giữ không cho cây bị gió lay. Dùng cỏ rác phủ quanh gốc giữ ẩm thường xuyên cho cây cách gốc 20 cm cho bộ rễ cây thông thoáng. Nếu có điều kiện nên ươm cây giống trong bầu lớn ít tháng, chăm sóc kỹ lưỡng cho ra bộ rễ mới, cơi lá mới sẽ mang ra trồng. Mùa mưa khai nước mương, cơi mô, chống ngập úng, mùa khô cần xới xáo quanh tán để kích thích rễ ăn ra xa, tưới đủ nước, giữ ẩm cho cây. Nếu phát hiện chồi mọc ra từ gốc ghép hoặc các nhánh sụ xuống đất nên sớm cắt bỏ. Tạo tán cân đối các cành cấp I với thân cây, bấm đọt cành cấp I, năm sau bấm đọt cành cấp II để tạo khung tán cây, hạn chế chiều cao của cây để sau này dễ chăm sóc, bọc trái (chống ruồi đục trái) và thu hái trái.

Bón phân thời kỳ kiến thiết cơ bản: thời kỳ kiến thiết cơ bản tính từ sau khi xuống giống và 3 - 4 năm sau khi trồng (SKT) rất cần thiết cho tốc độ phát triển, độ đồng đều và là tiền đề cho năng suất, sản lượng suốt thời kỳ kinh doanh hàng chục năm sau của vườn mận. Mỗi năm của thời kỳ kiến thiết cơ bản bón 15 kg phân hữu cơ + 0,4 kg super lân + 0,3 kg clorur kali, 0,5 kg urê. Phân hữu cơ, lân và kali bón trong vùng tán, cách gốc 20 - 30 cm và lấp đất. Phân urê nên chọn phương án hòa tan phân vào thùng tưới để tưới nhiều lần, mỗi lần cách nhau 1 - 2 tháng.

Bón phân thời kỳ kinh doanh: từ năm thứ 4 hoặc năm thứ 5 SKT đến năm thứ 15 hoặc lâu hơn, bón phân cần thiết cho cây tạo lá mới, trổ hoa, nuôi trái chất lượng tốt nhất. Vườn mận 4 - 10 năm tuổi bón hoặc tưới phân 3 lần/năm, vào tháng 2 - 3, 6 - 7 và 11 - 12, với lượng phân: đầu năm bón 0,4 kg urê + 0,2 kg clorur kali để cây đâm tược, ra hoa và quả; giữa năm bón 0,4 kg urê + 0,25 kg clorur kali để cây hồi sức sau thu hoạch; cuối năm bón 20 - 30 kg phân chuồng + 0,7 kg super lân + 0,15 kg clorur kali (rắc đều và chôn lấp trong tán) tưới nước ẩm cho tan phân, giúp cây chuẩn bị ra hoa tốt và đồng loạt hơn. Vườn mận trên 10 năm cũng bón mỗi năm 3 lần, với lượng phân tăng gấp rưỡi hoặc gấp 2 lần, tùy thực trạng vườn; vườn tươi tốt bón ít, vườn yếu sức bón nhiều.

Phòng trừ sâu bệnh: cây mận thường bị các loại sâu bệnh như: bọ cánh cứng ăn lá, sâu đục cành, rệp sáp, rệp muội, bọ xít, sâu non, bọ cánh vẩy hại đọt non, bệnh phấn trắng, bệnh chảy nhựa. Chăm sóc, bón phân đồng loạt để chủ động bảo vệ bộ lá, hoa, quả. Vệ sinh vườn, quét vôi gốc có tác dụng hạn chế tác hại của sâu bệnh cho vườn mận. Nên thực hiện đúng hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật và nhà sản xuất về sử dụng các loại thuốc BVTV như: Selecron 500ND, Trebon 10EC để diệt côn trùng. Dùng Ortus 5SC diệt nhện, phun Supracid 20EC trừ rệp sáp. Dùng Tilt super 300ND trừ bệnh phấn trắng. Với bệnh chảy nhựa cần cạo vỏ chỗ vết bệnh và phun Aliette 80WP  hoặc quét Bordeaux đặc lên vết bệnh.

Để chắc chắn có sản phẩm an toàn và công bố chất lượng sản xuất, đăng ký chất lượng hàng hóa xuất khẩu, bán vào siêu thị v.v..., cần có quy trình chăm sóc vườn và định mức phân bón và thuốc trừ sâu bệnh, giảm thuốc BVTV nếu có thể hoặc sử dụng đúng liều lượng ghi trên bao bì, cách ly (ngưng sử dụng phân, thuốc) đúng quy định khi thu hái mận. Cần dùng ít loại thuốc để dễ dàng và giảm chi phí trong kiểm tra xét nghiệm mức dư lượng trong trái mận. Dùng phân bón thống nhất chủng loại và liều lượng trong nhóm nông dân sản xuất mận để tạo ra khối lượng mận chất lượng cao và đồng nhất, thuận lợi trong tiêu thụ.

Thu hái và bảo quản: thu hái khi quả đã đủ độ chín phù hợp nhất cho vận chuyển đến nơi tiêu thụ mà không ảnh hưởng chất lượng. Mận có vỏ mỏng, rất dễ tổn thương sây sát, khi thu hái cần nhẹ tay, có dụng cụ chứa đựng phù hợp để tránh giập nát khi thu hái và vận chuyển. Trước đây do thiếu ý thức, thiếu dụng cụ thu hái chứa đựng nên mận hư hao rất nhiều. Nếu làm tốt khâu bảo quản mận, giảm tối thiểu trái bị giập nát trong và sau thu hoạch sẽ nâng cao giá trị sản lượng lên hơn 30% so với cách thu hái thông thường.

Thị trường:
do sản lượng rất thấp, mận An Phước hiện tiêu thụ không nhiều trong quầy trái cây tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang v.v...Thị trường trong nước còn nhiều trong khi mận An Phước dễ thắng trong cạnh tranh chất lượng với các loại mận khác. Trung Quốc là thị trường trái cây xuất khẩu tiềm năng của ta. Trung Quốc có rất ít quả gioi (mận), trái rất nhỏ, hình thức và chất lượng kém. Nếu bảo quản, vận chuyển tốt, mận An Phước có màu sắc đỏ đẹp chắc chắn có thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc.

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2018

Kỹ thuật bón phân cho cây roi - cây mận

Kỹ thuật bón phân cho cây roi - cây mận

Bón phân cho cây nên chia làm nhiều đợt, để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho cây khỏe và năng suất cao

Roi là loại trái cây khá giàu chất khoáng, hiện được trồng phổ biến ở miền Tây và Đông Nam Bộ, thích hợp ở nhiệt độ từ 28 - 30 độ C.

Cây mọc rất khỏe và ưa sáng. Thời vụ trồng cây tốt nhất là tháng 4 - 5 đầu mùa mưa, đất đủ ẩm có thể trồng quanh năm. Nếu trồng trong mùa khô cần phải có nguồn nước tưới.

Có rất nhiều loại roi có giá trị kinh tế cao, ở miền Nam được trồng phổ biến các giống sau:Roi trắng (Bắc thảo), roi Hồng đào,roi Hồng đào điều,roi xanh,roi An Phước,…

Khi cây con còn nhỏ, vào mùa nắng cần thường xuyên tưới nước đủ ẩm để cây phát triển. Bón phân cho cây nên chia làm nhiều đợt. Bón lót toàn bộ phân hữu cơ chế biến (10 - 15 kg/hố) + phân lân (0,5kg lân nung chảy hoặc lân super/hố). Bón thúc bằng phân urê định kỳ cứ 30 - 45 ngày 1 lần bón, liều lượng 0,1-0,2 kg/cây.

Bón phân cho cây
roi đã trưởng thành và cho trái được chia làm 4 lần

Đợt 1 (tính từ khi vừa kết thúc thu hoạch vụ trước) ưu tiên bón phân hữu cơ, phân lân và phân đạm (N) nhằm nhanh chóng giúp cây trồng phục hồi sức khỏe sau một thời gian dài phải huy động dinh dưỡng nuôi trái và tích lũy dinh dưỡng cho các giai đoạn kế tiếp. Mỗi gốc bón 5 -10kg phân hữu cơ chế biến + 1kg NPK 20-20-15 + TE.

Đợt 2 (trước khi cây ra hoa), bón tăng tỷ lệ phân lân (P) và phân kali (K), giảm lượng phân đạm (N) nhằm giúp cho tỷ lệ C/N của cây tăng cao, thuận lợi cho quá trình hình thành mầm hoa, phát triển hoa. Bón lượng phân có lân cao như DAP với lượng 1,0 - 1,5kg/gốc, hoặc phân chuyên dùng AT-2 + TE, có thể phun xịt hỗ trợ thêm phân bón lá NPK(10-60-10) hoặc (6-30-30).

Đợt 3 (sau thụ phấn đến khi trái phát triển tối đa về thể tích), cần bón cân đối các chất đa lượng NPK và cả các chất trung và vi lượng nhằm giúp hạn chế tỷ lệ rụng trái, tăng nhanh việc phát triển thể tích trái và số quả/cây. Có thể bón một trong những loại phân NPK như 16-8-16 + TE; 20-0-20 +TE; 14-7-21 + TE; 12-12-17 + TE hoặc phân chuyên dùng AT-3. Phun xịt thêm phân bón lá 12-0-40 + 3Ca0 hoặc 20-20-20 + TE.

Đợt 4 (trước thu hoạch 1 tháng), đây là giai đoạn tích lũy và chuyển hóa các chất trong trái, tăng độ chắc của trái và tăng chất lượng của trái nên rất cần kali (K) để tăng cường quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng từ lá cây vào trái và chất đạm (N), chất calci (Ca), vi lượng. Chúng giúp thúc đẩy nhanh quá trình chín sinh lý và sinh thái của trái, giúp cho việc chín đồng loạt và tăng chất lượng trái. Đợt bón này cần ưu tiên sử dụng các dạng phân bón có tỷ lệ NPK = 12-0-40 + 3Ca0; 20-20-20 hoặc HK 7-5-44.

Chú ý, để trái mận to đều và ngọt cần tiến hành tỉa trái.

Kỹ thuật trồng roi

Kỹ thuật trồng roi

Ở miền Bắc gọi là roi, miền Nam gọi là Mận, roi là giống cây ăn trái được trồng nhiều nơi trên thế giới, trồng để làm cảnh, lấy bóng râm vì cây có tán lá xum xuê, xanh mướt quanh năm, hoa, lá có mùi hương thơm dễ chịu, quả ngon ngọt nhiều nước


Có rất nhiều giống. Cần nên khẳng định hiện nay giống roi An Phưóc hay còn được gọi là roi chuông, là giống có năng suất cao và chất lượng ngon nhất. Trái hình quả chuông, màu đỏ- nâu, sọc mờ nhạt, đặc ruột, thịt dẻ và có màu trắng xanh, giòn- ngọt, thơm. Trọng lượng trung bình 100- 120 gram/trái. Cây sinh trưởng khỏe, ít sâu bệnh.  Cho trái sau 1- 2 năm trồng. Thời vụ cho hoa trái tự nhiên từ tháng 10 năm trước cho đến tháng 5 năm sau, khoảng 3- 4 đợt trái. Nếu được trồng chăm sóc đúng qui trình kỹ thuật mận sẽ cho hoa trái theo ý muốn, bán được giá cao. Vụ trái năm 2007- 2008, giá sỉ đầu vụ 15.000 đồng/ký, thấp nhất cũng 7.500 đồng/ký.

I. Kỹ thuật trồng và chăm sóc:

1. Kỹ thuật trồng:

a. Giống: chọn cây giống khỏe mạnh, không sâu bệnh.

b. Mật độ: Cây cách cây 4m, hàng cách bằng 5m.

c. Đất trồng:

Vùng đất trủng: làm mô trồng rộng 0,6- 0,8m, cao 0,3- 0,6m.

Vùng cao: đất gò đồi như ở miền Đông, Tây Nguyên, … nếu: đất bằng phẳng đào hốc có kích thước 0,5x0,5x0,5m. Vun mô rộng 0,6m, cao 0,3m. Đất dốc, đào hốc trồng như trên. Nếu độ dốc nhỏ hơn 7%, hốc trồng ngang bằng mặt đất. Đất quá dốc, hốc trồng có thể thấp hơn mặt đất 10- 20cm. Mỗi mô có thể bón 0,5kg vôi bột, 0,3kg phân lân, 5- 10kg phân hữu cơ hoai mục.

d. Cách trồng: đào một hốc nhỏ ở giữa vị trí trồng. Rọc đáy túi dựng bầu. Đặt cây vào vị trí, và rọc một đường từ trên xuống để lấy túi đựng bầu ra. Lấp đất giữ chặt cây.  Cắm cọc cố định cây (cột cây bằng dây nilon).

2. Kỹ thuật chăm sóc :

a. Giữ ẩm: Sử dụng các vật liệu dễ tìm như rơm rạ, cỏ khô … đậy phủ xung quanh gốc để giữ ẩm.

b. Tưới tiêu: Cung cấp nước cho cây thường xuyên nhất là ở thời kỳ mới trồng, hay khô hạn kéo dài. Cây chuẩn bị ra hoa, cần giữ cho gốc cây khô ráo. Thời kỳ mang trái, cây rất cần nhiều nước để nuôi trái. Thiếu nước năng suất kém, phẩm chất giảm và trái nhỏ.

c. Tỉa cành tạo tán: tỉa bỏ cành vượt, cành già cỗi, sâu bệnh, tạo thông thoáng giúp cây quang hợp tốt.  Khống chế chiều cao cây khoảng 3,5m trở lại.

d. Bồi đất cho cây:
Hàng năm nên bồi thêm đất cho cây vào đầu mùa khô như bùn mương, đất khô … dầy 2- 3cm, xung quanh tán cây kết hợp với việc bón phân hữu cơ hay phân hóa học.

e. Bón phân:
Cần tham khảo thêm tài liệu và kinh nghiệm bón phân trong điều kiện canh tác thực tế.

- Phân hữu cơ: Bón 10- 15kg phân hữu cơ hoai mục, như: Phân trâu bò, heo, dê, rơm rác mục. Cách bón: Có thể bón xung quanh tán cây và bồi lớp đất bùn mỏng hay đào 3-4 hố kích thước 40x40x40cm ở khoảng giữa tán cây bón phân vào hố và lấp đất lại .

- Phân hóa học: Năm thứ nhất: Bón cho cây khoảng 500 gram phân NPK 16-16-8. Chia ra 4- 5 lần bón trong năm; Năm thứ hai: Bón gấp đôi lượng phân năm thứ nhất, chia ra 3-4 lần bón;  Thời kỳ cho hoa trái: Bón 1,5- 3kg phân NPK 20-20-15, chia ra làm nhiều lần bón (nên cắt bỏ bớt 50- 60% bông trái nhằm giúp tăng phẩm chất). Cần tăng cường Kali vá Canxi nhằm giúp trái có màu tươi đẹp và vị ngọt hơn. Thu hoạch xong có thể bón tiếp cho cây 0,5- 1 kg phân NPK 20-20-15 cho cây nhanh chóng phục hồi để cho hoa trái đợt tiếp theo.

II. Sâu bệnh :

1. Sâu rầy gây hại :

a. Sâu ăn lá:
Là loài sâu ăn tạp, thường cắn phá đọt non làm bộ lá còi cọc xơ xác. Dùng các loại thuốc BVTV xử lý: Vifast 5ND, Desic 2,5 ND, Basudin 50EC,…

b. Rầy mềm, rệp sáp, rệp dính:
Tấn công chồi non, cuốn lá, cuốn trái,… làm cành lá quăn queo, bị muội hóng làm đen trái …

Có thể dùng Bassan 50ND, Supracide 40ND, Polytrin 10ND …

c. Sâu đục thân, đục cành: Ấu trùng đục vào cành, thân làm cho cành bị khô có thể bị gảy ngang. Đầu tiên chúng khoét những đường hang ngoằn- nghèo, hay đụt sâu vào thân cây, cây suy kiệt dần rồi chết.

Có thể dùng Vibasu 10H, Vicarp 10H, Regent … để xử lý định kỳ xung quanh gốc, hay sử dụng các loại thuốc có tính lưu dẫn để xịt phòng cho cây.

d. Sâu đục trái: Chúng đục sâu vào bên trong trái, đùn phân ra ngoài làm giảm phẩm chất trái. Dùng các loại thuốc sâu có độc tính thấp để phun phòng ngừa như : Polytrin P440 ND, Vertmec 1,8 ND, Treon … xịt định kỳ vào giai đoạn trái còn nhỏ và bao trái.

e. Ruồi đục trái: Gây hại trên trái ở giai đoạn trái gần chín. Ruồi đẻ nhiều trứng vào trái, trứng nở ra giòi, đụt khoét thành hang làm như hư thối. Vào mùa mưa trái thường bị hư hại rất nặng nề. Dùng chất dẫn dụ sinh học Vizubon- D hay Protêin thủy phân để bẩy ruồi. Với cách diệt ruồi đụt trái này sẽ không gây ô nhiễm môi trường, giúp tăng chất lượng của cây trái. Có thể dùng túi nilon để bao bọc trái sau khi đã xử lý thuốc phòng trừ sâu rầy và nấm bệnh.

2. Bệnh: trên roi, bệnh gây hại không quan trọng lắm. Cần lưu ý phòng bệnh vào giai đoạn sau khi đậu trái, phòng chống bệnh thối nhủng trái, có thể sử dụng: Ridomyl MZ 72 BHN, Tilt 250 ND, Score 250 ND … liều dùng theo sự hướng dẫn của nhà sản xuất.

Trồng và chăm sóc roi - mận

Trồng và chăm sóc roi - mận

Mận sợ cỏ vì rễ ăn nông, vì vậy lúc nào gốc mận cũng nên giữ sạch cỏ. Tốt nhất nên phủ rác quanh gốc, dưới tán cây, vừa chống cỏ, vừa giữ ẩm.

1. Mật độ, khoảng cách

Khoảng cách trồng 5m hoặc 5 x 4m (400-500 cây/ha). Đất xấu trồng mau, đất tốt trồng thưa hơn. Ghép lên gốc đào, cây mọc khỏe tán to, cũng trồng thưa hơn khi ghép lên gốc mận.

2. Bổ hốc, đánh cây

Bổ hốc theo kỹ thuật thông thường và nên bổ sớm cho đất ải. Mận cũng như hồng là một cây rụng lá nên thời gian trồng thuận tiện nhất là tháng 12, 1 khi cây nghỉ Đông.

Thời kỳ này có thể trồng rễ trần nghĩa là đánh cây lên, rũ hết đất; nếu có đất bùn ao tốt nhúng vào rễ bùn sau đó bó từng bó 10, 20 cây sau vài ngày trồng vẫn có thể sống 100%.

Không thể trồng rễ trần các tháng khác khi cây đang sinh trưởng. Muốn trồng sống vào bất cứ thời gian nào trong năm nên ương cây trong bầu bọc polyetylen, 6-10kg đất, ghép khi cây còn ở bầu, bóc vỏ bỏ polyetylen khi trồng.

3. Đốn cành tạo hình

a) Tạo hình: Chỉ có thể tạo hình trên cơ sở chăm sóc tốt cây con ngay từ đầu, cắm cọc chống khi cần để có thân chính thẳng. Cũng như các cây ăn quả khác, hãm ngọn thân chính để tạo nên 3-5 cành khung hay nhiều hơn tùy theo sức cây và chân cành khung trên thân chính phải cách nhau đều, khoảng 20-30cm.

b) Tạo quả. Cây mận rụng lá mùa Đông, lại có nhiều mắt, có khả năng bật thành cành lớn do đó mận là cây chịu đốn; vậy cành vượt, cành già bắt đầu khô, cành manh, đều có thể tỉa bớt, cắt bỏ từ chân cành. Tất cả các giống mận của ta đều thuộc loại mận Trung Quốc, nụ hoa ra nhiều nếu thụ phấn tốt không sợ thiếu quả mà thường hay xảy ra tình trạng quả ra quá nhiều.

4. Tỉa quả

Tỉa quả là một điều bắt buộc đối với mận vì:

- Quả sau khi tỉa đều, to và mã quả đẹp hơn nếu không tỉa.

- Tỉa quả là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa gãy cành (cành mận dòn dễ gãy).

- Tỉa quả giảm số công thu hoạch vì quả to, phân bố đều trên cành.

Phương pháp tỉa: có thể tỉa bằng tay, đợi đến tháng 4 khi quả đã to bằng hạt đỗ tương (đậu nành) thì tỉa. Nguyên tắc tỉa: không để chùm và quả nọ cách quả kia 4-5cm trên cành quả.

5. Bón phân, tưới nước, làm cỏ


Mặc dù mận trồng được ở đất xấu, cần phải bón nếu muốn đạt sản lượng cao. Tốt nhất trong điều kiện Việt Nam là phân chuồng để ải; số lượng khi trồng bỏ dưới hốc: 30-40kg.

Những năm sau bón tháng 12 khi cây nghỉ Đông. Sau khi cây ra quả, thời kỳ cần bón nhất là tháng 6, 7 sau khi thu hoạch.

Trong các yếu tố dinh dưỡng, đạm và kali cần nhất rồi đến lân. Lượng phân khoáng thường bón 300-500g/cây amôn sunfat khi cây chưa ra quả; 1-1,5kg khi cây đã có quả rồi. Tính ra NPK nguyên chất 1 hecta đương thu hoạch bón khoảng 100kg N, 100-150 P2O5, 150-200kg K2O.

Mận thường trồng ở đất gò, dốc, xa nước nên tập quán là trồng không tưới. Nếu trồng gần nhà một vài cây, tháng 3, 4 khi quả non đương lớn, và nếu trời hạn, tưới cho mỗi gốc một vài thùng nước rất có lợi.

Mận sợ cỏ vì rễ ăn nông, vì vậy lúc nào gốc mận cũng nên giữ sạch cỏ. Tốt nhất nên phủ rác quanh gốc, dưới tán cây, vừa chống cỏ, vừa giữ ẩm. Dùng cuốc xới cỏ quanh gốc thường làm đứt rễ, vì vậy khi có cỏ nên làm thật sớm khi cỏ chưa lớn để khỏi phải cuốc sâu và tốt nhất nên nhổ cỏ bằng tay.

6. Trừ sâu bệnh

Trên núi cao, với điều kiện khí hậu thích hợp, nhất là về nhiệt, cây mận mọc khỏe, không có sâu bệnh đáng kể. ở đây trồng giống mận chua, chống sâu sâu bệnh cũng khỏe, nên ít khi người ta bắt sâu phun thuốc. Nếu chăm bón tốt và nếu lại trồng những giống mận ngon quả to, sâu bệnh vẫn nguy hiểm. Những loại chính là:

- Bệnh chảy gôm: phổ biến ở đào, mận. Cách phòng: không đốn cành non, đặc biệt cành hơi to. Khi phải đốn, dùng cưa và dao sắc để vết thương chóng lành, phòng trừ sâu đục thân, sâu ăn vỏ cũng giảm bớt bệnh.

- Bệnh khô cành: mận Tam Hoa trồng ở vùng thấp hay mắc. Triệu chứng: cành nhỏ khô từng vết khi vết loang ra bao trùm cả cành thành một vòng thì lá và quả non đang lớn héo đi, lấy dao cạo vỏ thì thấy dưới vết khô gỗ biến màu nâu, ống dẫn nhựa bị tắc do đó cành héo. Có thể bệnh do một loại vi khuẩn gây ra. Phòng trừ bằng thuốc bordeaux ít tác dụng. Cắt cành khô đem đốt, tháng 12 khi cây ngừng sinh trưởng, làm giảm bệnh. ở trại Lý Nhân ghép lên mận chua, mận Tam Hoa ít bệnh hơn trồng bằng cành chiết.

- Bệnh nấm đỏ (Polystigma rubrum) ở Sapa, Mèo Vạc, đặc biệt những nơi ẩm lá mận bị hại thành từng vết tròn màu đỏ da cam có nhiều bào tử nấm. Trị bằng thuốc bordeaux rất có hiệu lực.

Ở trung du và đồng bằng, những sâu chính hại mận có: xén tóc, mối, sâu róm ăn lá và quả non, sâu đục nõn, nhưng không có sâu nào đặc biệt nguy hiểm.

Phương pháp trồng roi - trồng mận

Phương pháp trồng roi - trồng mận

Trồng doi vào tháng 2-4 trước khi nảy lộc xuân và tháng 11-12 sau khi rụng lá. Khi trồng bới ở giữa hố, đặt bầu vào nén chặt xung quanh, tưới đẫm nước, dùng cỏ rác khô ủ xung quanh gốc cây.

Đất trồng roi có độ mùn 2-2,5% trở lên, có tầng dày trên 50cm, tơi xốp, khả năng giữ ẩm tốt, dễ thoát nước.

I. Đào hố

Hố trồng có kích cỡ 60x60x60cm hoặc 50x60x70cm, hố cách hố 44m, mật độ 625 cây/ha. Hố đào xong bón lót mỗi hố 20-25kg phân chuồng hoai + 200g lân nung chảy + 100g sunphat kali + 300g vôi bột, trộn kỹ với đất và lấp đầy hố, để 1 tháng sau mới trồng.

II. Thời vụ

Trồng roi vào tháng 2-4 trước khi nảy lộc xuân và tháng 11-12 sau khi rụng lá. Khi trồng bới ở giữa hố, đặt bầu vào nén chặt xung quanh, tưới đẫm nước, dùng cỏ rác khô ủ xung quanh gốc cây.

III. Chăm sóc

- Tháng đầu nếu trời khô hanh phải tưới nước hàng ngày. Diệt cỏ, xới xáo quanh gốc.

- Mùa mưa chống ngập úng, mùa khô lạnh cần xới xáo, ủ gốc giữ ẩm cho cây.

- Cắt bỏ sớm các chồi dại từ phần cây gốc ghép, để tập trung dinh dưỡng cho mầm ghép sinh trưởng phát triển.

- Khi cây cao 1-1,2m bấm ngọn tạo ra 4-5 cành cơ bản. Năm sau lại bấm ngọn các cành để tạo cành thứ cấp.

IV. Bón phân


Roi dưới 4 năm tuổi bón phân mỗi năm 1 lần vào đầu năm: 15kg phân hữu cơ + 0,4kg supe lân + 0,3kg clorua kali, 0,5kg urê, riêng lượng urê chia bón làm 2 lần đầu và cuối năm.

Với vườn roi 4-10 năm tuổi bón 3 lần/năm, vào tháng 2-3, 6-7, 11-12, với lượng phân: đầu năm bón 0,4kg urê + 0,2kg clorua kali để cây nảy lộc, hoa và quả; giữa năm bón 0,4kg urê + 0,25kg clorua kali để cây hồi sức sau thu hoạch; cuối năm bón 20-30kg phân chuồng + 0,7kg supe lân + 0,15kg clorua kali giúp cây chuẩn bị ra hoa.

Với roi trên 10 năm cũng bón mỗi năm 3 lần, với lượng phân tăng gấp rưỡi hoặc gấp 2 lần tùy thực trạng vườn.

V. Phòng trừ sâu bệnh

Cây roi thường bị các loại sâu bệnh như: sâu cánh cứng ăn lá, sâu đục cành, rệp sáp, rệp muội, bọ xít, sâu non, bọ cánh vẩy hại đọt non, bệnh phấn trắng, bệnh chảy nhựa. Việc chăm sóc, bón phân, vệ sinh, quét vôi gốc… có tác dụng hạn chế tác hại của sâu bệnh cho vườn mận.

Sử dụng các loại thuốc như: Selecron 500ND pha 0,1%, Trebon 10EC pha 0,5-1% để diệt côn trùng, với nhện dùng Ortus 5SC pha 0,1%, với rệp sáp phun Supracid 20EC pha 0,1%.

Dùng Tilt super 300ND pha 0,1% trừ bệnh phấn trắng, với bệnh chảy nhựa cần cạo vỏ và phun Aliette 80WP pha 0,3% hoặc quét Boodo đặc 10% lên vết bệnh.

VI. Thu hái và bảo quản

Thu hái khi quả đã chín hẳn. Trường hợp phải vận chuyển đi xa, nên hái khi còn ương, độ già khoảng 79-90%, trước khi quả chín 7-10 ngày.
Khi thu hái cần nhẹ nhàng, không làm giập nát, sây sát. Quả thu hái xong cần đặt vào sọt có lót rơm rạ, giấy mềm để vận chuyển không bị giập nát.
Bảo quản roi ở nơi khô, mát, thoáng. Nên xếp vào các sọt để trên giàn, tránh đổ thành đống.

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2018

Bệnh thối rễ, khô cành vú sữa và biện pháp quản lý tổng hợp

Bệnh thối rễ, khô cành vú sữa và biện pháp quản lý tổng hợp

Bệnh thường xuất hiện và gây hại nặng trên những vườn vú sữa già cỗi, kể cả đối với những vườn trong giai đoạn kiến thiết cơ bản làm sụt giảm đáng kể năng suất và thậm chí gây chết cây.

Bệnh thối rễ là một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm và gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho vùng trồng vú sữa tập trung ở tỉnh Tiền Giang. Bệnh thường xuất hiện và gây hại nặng trên những vườn vú sữa già cỗi, kể cả đối với những vườn trong giai đoạn kiến thiết cơ bản làm sụt giảm đáng kể năng suất và thậm chí gây chết cây.

Triệu chứng: Triệu chứng khá phổ biến và điển hình của bệnh thối rễ trên cây vú sữa là cây còi cọc, kích thước lá bị thu nhỏ lại hay còn gọi “lá me”, tán lá thưa, có màu xanh xám, đôi khi lá trên một số cành bị rụng dẫn đến hiện tượng cây bị trơ cành và trái dễ bị héo xanh. Hệ thống rễ tơ (rễ mền) hay kể cả rễ thứ cấp đều bị thối nhũn, sau đó khô và hóa nâu. Ngoài ra, bệnh còn tấn công ở vị trí cổ rễ hay một số vị trí cục bộ trên rễ chính (nằm gần mặt đất) từ đó làm cho toàn bộ hệ thống rễ bị thối khô và hóa nâu, nếu phát hiện muộn thì sẽ rất khó phòng trị.

Tác nhân: Thối rễ do nhiều tác nhân gây ra như: Nấm Fusarium solani, Fusarium oxysporium và Pythium helicoides; nứt khô cành do nấm Botryospaeriarhodia.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh, phát triển của bệnh: Tuổi vườn khá cao; bón phân không cân đối giữa các thành phần N, P và K. Đặc biệt vẫn còn sử dụng biện pháp bơm lùa và bón nhiều phân đạm để kích thích ra hoa sớm vụ; sử dụng quá ít phân hữu cơ; đất chua và bón quá ít vôi; nông dân không biết nguyên nhân gây bệnh và biện pháp quản lý thiếu đồng bộ; bệnh phát triển rất nhanh, khó phát hiện và do đó các biện pháp xử lý bệnh đều không đạt hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, thiết kế vườn chưa đúng kỹ thuật, ngập úng, thoát nước kém trong mùa mưa lũ và bồi bùn lên mặt liếp quá dày… cũng là những yếu tố góp phần làm cho bệnh trở nên trầm trọng.

Bệnh thối rễ, khô cành cây vú sữa do nhiều tác nhân khác nhau, những tác nhân này đều có nguồn gốc phát sinh từ đất, do đó đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp quản lý tổng hợp thì mới đạt được hiệu quả. Ngoài ra, việc kiểm tra vườn thường xuyên để có thể phát hiện sớm bệnh, từ đó có biện pháp quản lý bệnh kịp thời và hiệu quả.

Quy trình quản lý tổng hợp bệnh thối rễ, khô cành

1. Giai đoạn sau thu hoạch

- Tiến hành vệ sinh vườn: Thu gom lá khô trên mặt liếp, trái bị nhiễm sâu bệnh, cắt tỉa cành bị sâu bệnh, cành vượt bên trong tán, cành ốm yếu.

- Tỉa cành, trẻ hóa những vườn cây vú sữa già cỗi, bị nhiễm bệnh thối rễ, giúp cây hồi phục sinh trưởng nhanh và chất lượng trái được cải thiện. Nên tỉa cành để cây vú sữa phân bố cành đều theo các hướng và khống chế chiều cao không quá 4-4,5m. Đối với những vườn vú sữa già cỗi, cây bị nhiễm bệnh thối rễ thì tùy thuộc vào tuổi cây, mức độ nhiễm bệnh có thể tỉa từ 45-60% tán cây hoặc thấp hơn tỷ lệ này nhằm giúp sự cân bằng giữa tán cây và bộ rễ bị thối trong đất cũng như gia tăng chất lượng trái. Lưu ý, nên khử trùng vết cắt bằng thuốc trừ nấm có gốc đồng hoặc sơn công nghiệp để ngăn ngừa bệnh xâm nhiễm qua vết thương.    

- Bón vôi cho toàn bộ vườn với liều lượng từ 5-10kg/ cây trưởng thành.

- Xử lý thuốc trừ nấm gây bệnh thối rễ: có 2 trường hợp xảy ra:

* Trường hợp cây thối hệ thống rễ thứ cấp (rễ tơ, rễ mền): Khi phát hiện hệ thống rễ bị thối, tiến hành xử lý thuốc bằng cách xới nhẹ đất xung quanh tán cây, sau đó tưới một trong các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất như: Fosetyl-aluminium, Mancozeb + Metalaxyl, Cuprous oxide, Benomyl  theo liều lượng khuyến cáo, số lần tưới thuốc từ 3-5 lần/năm tùy vào tình hình diễn biến bệnh trên vườn. Nên tiến hành xử lý thuốc khi cây đang thu hoạch còn 10-20% số trái trên cây. Tưới đều dung dịch thuốc xung quanh tán cây, sau đó tưới nước liên tục 2-3 ngày để giúp thuốc hoà tan và thấm đều vào trong đất.

* Trường hợp cây thối rễ chính, cổ rễ: Trong trường hợp cây bị thối ngay vị trí cổ rễ, rễ chính nằm gần mặt đất thì phải cào đất ra cho lộ rõ bộ phận rễ bị bệnh, cạo sạch vết bệnh và sử dụng cùng các loại thuốc nêu trên bằng cách pha đậm đặc theo tỷ lệ 1:1 (thuốc : nước) quét lên vị trí vết bệnh và tưới chung quanh vị trí này. Lặp lại nhiều lần (3-4 lần), mỗi lần cách nhau 7-10 ngày cho đến khi kiểm tra thấy vết bệnh hết thối. Sau xử lý thuốc, nên sử dụng vật liệu che đậy gốc (cỏ khô, mụn dừa…) nhằm giúp rễ tơ mới mọc ra nhanh và tránh bị ánh sáng mặt trời tác động trực tiếp. Kết hợp rải thuốc trừ tuyến trùng đất (Diazinon, Fipronil, Cytokinin) theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì, xử lý 1-2lần/năm hoặc nhiều hơn nếu đất bị nhiễm tuyến trùng nặng.   

- Có thể tưới hỗ trợ các chế phẩm kích thích sinh trưởng bộ rễ nhằm gia tăng sự phát triển rễ mới ngay sau khi tưới thuốc hóa học khoảng 7-14 ngày. Tưới định kỳ từ 1-2 lần/tháng cho đến khi kiểm tra thấy cây ra rễ mới. 

- Rải phân hữu cơ đã được ủ hoai với liều lượng 10-20kg/cây trưởng thành kết hợp với một số vi sinh vật có lợi Trichoderma, Streptomyces và Pseudomonas.

2. Giai đoạn chuẩn bị  xử lý ra hoa

- Xử lý ra hoa cho vú sữa khi cây đã trưởng thành, cho trái ổn định bằng phương pháp điều tiết nước và bón phân cân đối, hợp lý theo quy trình canh tác đã được khuyến cáo. Lưu ý không được bơm lùa và giữ nước trên mặt liếp quá lâu làm hư bộ rễ.

- Phun ngừa bệnh gây nứt-khô cành 1-2lần/đợt chồi cho toàn bộ tán cây bằng các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất: Thiophanate-methyl, Fenbuconazole, Myclobutanil ở giai đoạn cây ra đọt, cành non, cành chuẩn bị chuyển sang bánh tẻ.

- Tiếp tục xử lý thuốc trừ bệnh thối rễ với các loại thuốc nêu trên.

3. Giai đoạn cây mang trái


- Tỉa bỏ bớt trái bị nhiễm sâu bệnh, tì vết, cành nhỏ mang quá nhiều trái. Lưu ý đối với những cây sau trẻ hóa thường mang nhiều trái do đó nên giữ một số lượng trái nhất định và chỉ để nhiều trái đối với cành trẻ hoá từ 36 tháng trở đi.

- Tiếp tục cung cấp thêm phân vô cơ theo quy trình canh tác và bón tăng cường phân hữu cơ hữu cơ ủ hoai/thương mại từ 2-5kg/gốc.

- Ở thời điểm bắt đầu thu hoạch trái thì nên duy trì chế độ tưới định kỳ và tưới vừa phải nhằm cung cấp đầy đủ nước cho cây trong giai đoạn mang nhiều trái.

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Thành Hiếu (Viện Cây ăn quả miền Nam), Báo Ấp Bắc, 05/08/2013

Giải pháp phục hồi vườn vú sữa suy kiệt

Giải pháp phục hồi vườn vú sữa suy kiệt

Để phục hồi cây bị bệnh, TS. Hòa cho biết, nông dân cần cắt, tỉa bớt cành bị sâu bệnh, cành phụ ốm yếu để cây giảm bớt tiêu hao năng lượng, giúp cây phục hồi nhanh, cải thiện chất lượng trái.

TS. Nguyễn Văn Hòa, Phó Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết: "Qua khảo sát, điều tra, chúng tôi thấy không chỉ vườn già cỗi bị suy kiệt, mà vườn trẻ cũng bị. Điều này chứng tỏ rằng, việc suy kiệt trên cây vú sữa do tác nhân từ bệnh gây nên. Trình trạng thối rễ, khô cành, chết nhánh trên vú sữa diễn ra khoảng 4-5 năm nay, nhưng thời gian gần đây, bệnh xảy ra nhiều hơn, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho nhà vườn. Ngay từ năm 2008, Viện đã có những nghiên cứu về bệnh này; song do kinh phí hạn chế không có điều kiện đi sâu. Vừa qua, Sở Khoa học và Công nghệ đặt hàng cho Viện thực hiện đề tài nghiên cứu để phòng trị và phục hồi cây vú sữa bị bệnh. Từ đây giúp cho Viện có điều kiện nghiên cứu sâu hơn, từ đó đưa ra các giải pháp căn cơ hơn".

Hệ quả từ canh tác

Theo TS. Hòa, nguyên nhân làm cho bệnh gây hại nghiêm trọng trong thời gian qua bắt đầu từ khâu canh tác. Trước đây, nhà vườn trồng vú sữa cho trái, thu hoạch rải đợt, gần đây, họ xử lý cho ra hoa, trái nhiều quá, liên tục xử lý nghịch vụ để bán có giá. Thậm chí, có hộ xử lý ra hoa ngay khi cây còn mang trái. Những cách làm này làm cây suy yếu. Có người xử lý ra hoa, trái bằng cách bơm nước vào vườn và giữ trên mặt liếp từ 2 đến 3 ngày rồi rút nước ra. Cách này làm bộ rễ cây bị hư tạo điều kiện cho tuyến trùng, nấm phát triển và tấn công. Tuyến trùng tấn công từ rễ tơ, rồi đến rễ chính, cổ rễ. Lúc đầu, cây nhiễm bệnh vẫn phát triển bình thường, sau một thời gian mới có biểu hiện khô cành, héo trái. Khi phát hiện cây có biểu hiện bệnh cũng là lúc mật độ tuyến trùng, nấm gây hại rễ trong đất khá cao, cây bị suy kiệt rất khó phục hồi. Khi nhiều người cùng làm như thế, mầm bệnh trong đất có điều kiện phát triển, lây lan.

Ngoài ra, do hệ thống đê bao khép kín, nước trong các liếp vườn thoát không tốt lâu ngày cũng làm cho mầm bệnh có điều kiện phát triển, phát tán nhanh tấn công vào cây đang suy yếu (do quá trình canh tác khai thác trái quá triệt) để làm cho cây suy kiệt nhanh hơn. Không như cây có múi khi có bệnh biểu hiện ra ngoài dễ thấy, vú sữa không biểu hiện sớm nên khi biểu hiện ra thì cũng là lúc cây bị nhiễm bệnh, rễ đã bị thối rất nặng. Thực tế, thời gian qua, nông dân phát hiện cây bị bệnh thường rất muộn.

Biện pháp phục hồi và phòng trừ

Theo nhóm nghiên cứu, bệnh thối rễ, khô cành là một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm và gây giảm năng suất, thậm chí gây chết cây vú sữa. Biểu hiện phổ biến là cây còi cọc, kích thước lá bị nhỏ lại, tán lá thưa có màu xám, đôi khi lá trên một số hay phần lớn cành bị rụng dẫn đến hiện tượng trơ cành. Da thân cây tròn lẳng không còn gồ ghề. Hệ thống rễ tơ bị thối nhũn, sau đó khô và hóa nâu. Bệnh tấn công vào vị trí cổ rễ hay một số vị trí cục bộ trên rễ chính làm cho toàn bộ hệ thống rễ bị thối khô, hóa nâu. Nếu phát hiện muộn sẽ rất khó phòng trị. Có nhiều tác nhân gây bệnh này như nấm Fusarium solani, Fusarium oxysporium và Pythium helicoides.

Bệnh có xu hướng tăng mạnh từ tháng 2 đến tháng 6, sau đó tăng nhẹ đến tháng 12. Thời điểm này trùng với giai đoạn thu hoạch giữa vụ trở đi và nông dân tiếp tục giai đoạn xử lý ra hoa cho vụ sau làm cho bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Đối với những vườn càng bón ít phân hữu cơ hoặc không bón và sử dụng biện pháp bơm lùa để xử lý ra hoa, tỷ lệ bệnh càng cao. Đặc biệt, qua điều tra vườn, nhóm nghiên cứu nhận thấy, tỷ lệ người dân không biết nguyên nhân gây bệnh cao, tỷ lệ người dân áp dụng các biện pháp phòng trừ thấp và hiệu quả áp dụng các biện pháp trên kém, dưới 10%. Đây cũng là nguyên nhân làm cho tình trạng bệnh trên cây vú sữa diễn biến phức tạp và lây lan nhanh hiện nay.

Để phục hồi cây bị bệnh, TS. Hòa cho biết, nông dân cần cắt, tỉa bớt cành bị sâu bệnh, cành phụ ốm yếu để cây giảm bớt tiêu hao năng lượng, giúp cây phục hồi nhanh, cải thiện chất lượng trái. Trên cành có xuất hiện nấm, cần phun các loại thuốc trị nấm như Thiophanate-Methyl, Fenbuconazole, Myclobutanil... Để trị bệnh gây thối rễ, cần xới một lớp đất mỏng xung quanh gốc rồi tưới thuốc trị tuyến trùng (như Basudin, Vibasu, Nocap...) kết hợp với thuốc trị nấm (Ridomil, Norhield, Funomyl...) theo liều lượng khuyến cáo sao cho thuốc thấm đều và sâu vào đất, tiếp xúc với hệ thống rễ cây. Nông dân có thể bón vôi cho vườn để sát trùng; cần tăng cường bón phân hữu cơ kết hợp với nấm đối kháng như Trichoderma để tiêu diệt mầm bệnh gây hại trong đất (cần cách ly thời gian cung cấp nấm đối kháng với tưới thuốc trừ nấm theo khuyến cáo). Việc điều trị này thực hiện từ 2-3 lần hoặc nhiều hơn tùy vào mức độ nhiễm bệnh của cây. Để cây phục hồi nhanh, nông dân có thể sử dụng thuốc, chất kích thích cho bộ rễ phát triển.

Để phòng ngừa bệnh, nông dân cần xử lý ra hoa ở mức độ vừa phải; không xử lý ra hoa, trái quá nhiều để tránh cho cây suy yếu tạo điều kiện tốt cho mầm bệnh tấn công. Tốt nhất là nông dân xử lý 2-3 vụ thì ngưng xử lý trái vụ 1 vụ để cho cây có thời gian phục hồi; tăng cường bón phân hữu cơ; bón phân cân đối, hợp lý giữa các thành phần đa, trung và vi lượng, chăm sóc cây đúng theo quy trình canh tác cây vú sữa. Song song, nông dân có thể vét bùn ở đáy mương phủ lên một lớp mỏng lên liếp; làm bờ bao và cống thoát nước để quản lý nước hợp lý trong ao và độ ẩm trong vườn.

TS. Hòa lưu ý: Nông dân không thể làm riêng lẻ mà phải làm đồng loạt cả vùng diệt trừ triệt để mầm bệnh, tránh lây nhiễm trở lại. Việc phòng trị này đòi hỏi phải làm thường xuyên, kiên trì tổng hợp nhiều biện pháp như canh tác, cơ học, sinh học, hóa học. Nông dân phải thăm vườn thường xuyên khi phát hiện cây có biểu hiện bất thường phải xử lý ngay; khi phát hiện nấm trên cành cũng phải phun thuốc diệt trừ ngay, ngăn chặn phát tán.

Đặc biệt, sau khi cây bị chết, nông dân không nên trồng cây vú sữa mới ngay lại vị trí cũ; cần có thời gian xử lý trước khi trồng tốt nhất là 2-3 tháng, còn nhanh nhất cũng phải 1 tháng bằng cách tưới thuốc diệt trừ mầm bệnh còn trong đất. Nông dân không nên xử lý nghịch vụ nhiều năm liên tiếp, xử lý cho trái quá nhiều; bón phân và các chất cân đối cho cây; tăng cường bón phân hữu cơ. Khi cây bị bệnh, việc điều trị phải kiên trì, thực hiện nhiều lần (tùy theo mức độ bệnh) với nhiều biện pháp tổng hợp, kết hợp với cung cấp đầy đủ các chất cần thiết, canh tác đúng quy trình giúp cho cây phục hồi nhanh.
N.Văn, Tiền Giang, 8/2013

Bón phân cho cây vú sữa

Bón phân cho cây vú sữa

Trước khi bón phân nên bơm nước cho ngập khỏa mặt liếp 0,5cm, tháo nước rút hết thì bón phân ngay. Sau 3-4 hôm tưới lại cho ướt đẫm các gốc giúp cây hấp thụ hết lượng phân.

Trước khi trồng, đắp mô cao 0,5m, đường kính mặt mô 1m. Làm mô bằng đất khô hoai trộn đều với 15kg phân chuồng hoai mục, giữa đỉnh mô móc 1 lỗ sâu 20cm, bón lót một nắm phân DAP và 300g lân.

Có thể sử dụng đất mặt ruộng, đất bùn ao, đất vườn cũ để lên mô, đường kính mô từ 0,8 – 1 m, cao 0,4 - 0,7 m. Trước khi trồng 15 - 30 ngày, nên xử lý khoảng 1 - 1,5 kg vôi/mô, bón lót từ 10 – 15 kg phân hữu cơ hoai và 0,5 - 1,5 kg lân vi lượng hoặc 10 – 20 gram NPK 20-20-15 + TE cho mỗi hố trước khi trồng.

Khoảng hơn tháng sau khi đặt bầu, ngâm phân DAP + urê hòa nước tưới xung quanh gốc 2 lần/tháng.

Khi cây 1-3 năm tuổi, mỗi năm xới gốc một lần bón 20kg phân chuồng hoai mục và 3 đợt phân hóa học, mỗi đợt từ 1-1,5kg hỗn hợp gồm DAP 18-46-0 + NPK 20-20-15 + urê vào các tháng 1, 6, 10 âm lịch.

Trước khi bón phân nên bơm nước cho ngập khỏa mặt liếp 0,5cm, tháo nước rút hết thì bón phân ngay. Sau 3-4 hôm tưới lại cho ướt đẫm các gốc giúp cây hấp thụ hết lượng phân.

Vào các tháng mùa khô, nên vét mương bồi bùn lên mặt liếp, chờ cho bùn khô nứt nẻ để nâng cao mô và mặt liếp hàng năm.

Khi cây bắt đầu ra trái, mỗi năm làm cỏ gốc và bón cho mỗi cây 2-3 giạ phân chuồng hoai, rơm rác mục và bón 4 đợt phân hóa học gồm: bón xử lý ra hoa 3kg hỗn hợp NPK 20-20-15 + urê + lân. Kế tiếp bón vào giai đoạn cây đậu quả to bằng nút áo gồm 2kg urê + DAP/1 gốc.

Khi quả non có đường kính 2-2,5cm, bón cho mỗi cây 2kg NPK 20-20-15. Đợt cuối, trước khi thu hoạch khoảng 2 tháng bón mỗi cây 2kg NPK 20-20-15.
Nguyên Khê (nongnghiepvn, 09/10/2007)